Siêu cường tàng hình: Trung Quốc che giấu tham vọng toàn cầu như thế nào
Oriana Skylar Mastro * Đỗ Tùng (Danlambao) - “Trung Quốc sẽ không lặp lại, không lặp lại thông lệ cũ của một cường quốc theo đuổi tham vọng bá chủ,” ông Wang Yi, bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc, tuyên bố vào tháng 9 vừa qua. Đó là một thông điệp mà các quan chức Trung Quốc (TQ) đã cố gắng truyền đạt kể từ khi đất nước của họ vươn lên một cách ngoạn mục. Trong nhiều thập kỷ, họ đã rất chịu khó ra vẻ hạ thấp sức mạnh của TQ và tìm cách trấn an các quốc gia khác, đặc biệt là Hoa Kỳ (HK), về các ý định vô hại của TQ. Giang Trạch Dân, lãnh đạo TQ trong những năm 1990, kêu gọi sự tin tưởng lẫn nhau, cùng có lợi, bình đẳng và hợp tác trong quan hệ đối ngoại. Dưới thời Hồ Cẩm Đào, người nắm quyền lãnh đạo năm 2002, “phát triển trong hòa bình” đã trở thành cụm từ của thời điểm này. Chủ tịch nước hiện nay, ông Tập Cận Bình, đã nhấn mạnh vào tháng 9 năm 2017 rằng TQ “không có gen” thúc đẩy mộng bá chủ.
Thật dễ dàng bỏ qua các quả quyết đó và đơn giản xem là sự lừa dối. Tuy nhiên trên thực tế các nhà lãnh đạo TQ đang nói sự thật: Bắc Kinh thực sự không muốn thay thế Washington để nắm vị trí hàng đầu của hệ thống quốc tế. TQ không quan tâm trong việc thiết lập một mạng lưới các liên minh toàn cầu, duy trì sự hiện diện quân sự ở các nơi xa xôi trên thế giới, hay gửi quân đến những nơi cách xa hàng ngàn dặm, hay cầm đầu các tổ chức quốc tế có thể sẽ hạn chế hành vi của chính họ, hoặc phổ biến hệ thống chính phủ của TQ ra nước ngoài.
Nhưng nếu chỉ tập trung vào sự miễn cưỡng này, và yên tâm rằng các tuyên bố của TQ đã phản ánh như vậy là một sai lầm. Mặc dù TQ không muốn chiếm đoạt vị trí lãnh đạo trật tự thế giới của HK, nhưng mục tiêu thực sự của nó gần như có hệ quả tương tự. Ở khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương, TQ muốn thống trị hoàn toàn; họ muốn đẩy HK ra ngoài và trở thành bá chủ không thể thách thức về chính trị, kinh tế và quân sự của khu vực. Và trên toàn cầu, mặc dù TQ chịu để HK nắm vị trí lãnh đạo nhưng họ muốn đủ mạnh để chống lại Washington khi cần thiết. Theo một quan chức TQ đã bày tỏ với tôi, “Là một siêu cường quốc có nghĩa là bạn có thể làm những gì bạn muốn mà không ai có thể nói gì hết.” Nói một cách khác, TQ đang cố gắng dời chỗ HK chứ không hẳn thay thế hoàn toàn.
Cách thức TQ thực hiện kế hoạch này đã khiến nhiều nhà quan sát kết luận sai lầm rằng nước này chỉ đang cố gắng cùng tồn tại với sức mạnh của HK chứ không phải muốn đảo ngược một cách gốc rễ trật tự ở châu Á và cạnh tranh với ảnh hưởng của Mỹ trên toàn cầu. Thật ra sự mơ hồ là một phần của chiến lược TQ: các nhà lãnh đạo TQ đã nhận ra rằng để thành công họ phải tránh gây ra những phản ứng bất lợi, và vì vậy họ đã kềm chế không trực tiếp thách thức HK, không sao chép mô hình xây dựng trật tự hoặc bắt chước hoạt động quân sự trên toàn cầu của HK. Mặc dù Bắc Kinh đã theo đuổi một chiến lược gián tiếp và có tính cách doanh thương để tích lũy quyền lực, nhưng đừng nhầm lẫn: mục tiêu cuối cùng của TQ là đẩy HK ra khỏi khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương và cạnh tranh với HK trên sân khấu thế giới.
Cho đến bây giờ TQ đã thành công trong việc phát triển mà không kích động. Tuy nhiên có một giới hạn trong việc một quốc gia có thể tăng cường sức mạnh mà không trực tiếp thách thức quyền lực đương nhiệm, và TQ hiện đang ở điểm giới hạn đó. Dưới thời Tập, TQ đã bắt đầu đối đầu với cường quốc Mỹ. Với những thách thức nội bộ hiện có, sự trỗi dậy của TQ vẫn có thể bị đình trệ. Nhưng lịch sử đã chỉ ra rằng trong phần lớn các trường hợp khi một quốc gia có thể duy trì sự lớn mạnh của mình, quyền lực đang trỗi dậy cuối cùng sẽ vượt qua quyền lực đang thống trị, một cách hòa bình hay thông qua chiến tranh.
Điều đó không có nghĩa là HK không thể tạo ra ngoại lệ của xu hướng lịch sử. Để duy trì ưu thế, Washington sẽ phải thay đổi hướng đi. HK sẽ phải gia tăng thay vì giảm bớt sự tham gia vào trật tự quốc tế tự do. HK sẽ phải tăng nhiều, thay vì từ bỏ, cam kết của HK đối với các giá trị Mỹ. Và có lẽ quan trọng nhất, HK sẽ phải đảm bảo rằng sự lãnh đạo của HK sẽ mang lại lợi ích cho các nước khác thay vì chỉ theo đuổi chiến lược dựa trên cơ sở “Nước Mỹ trước hết.”
Trung Quốc lớn mạnh như thế nào
Trong suốt lịch sử, các nước có thể trở thành cường quốc phát minh ra những cách phát triển mới. Đế quốc Mông Cổ kết nối các vùng đất đai thông qua thương mại, triều đại nhà Thanh xây dựng một hệ thống phụ lưu, Vương quốc Anh thu thập các thuộc địa, Liên Xô tạo ra phạm vi ảnh hưởng bằng liên kết về mặt tư tưởng và HK thiết lập một trật tự qua các định chế và sự hiện diện quân sự toàn cầu. TQ cũng vậy, đã tìm kiếm các nguồn sức mạnh mới và đã sử dụng nó theo những cách mà trước đây chưa xảy ra.
Trong lĩnh vực chính trị, TQ đã thực hiện sự kết hợp giữa các hoạt động bí mật và ngoại giao quần chúng để đồng hóa và vô hiệu hóa sự chống đối từ nước ngoài. Để định hình sự đàm luận về các chủ đề nhạy cảm, nó đã thành lập hàng trăm Viện Khổng Tử tại các trường đại học trên khắp thế giới và dựng lên các phương tiện truyền thông tiếng Anh để phổ biến luận điểm của Đảng Cộng sản TQ. Các nhân viên tình báo TQ thậm chí đã tuyển dụng công dân TQ đang du học ở nước ngoài để làm người lấy tin và báo cáo những gì sinh viên TQ và giáo sư đang nói về đất nước của họ. Ở Úc và Tân Tây Lan, TQ đã tìm cách gây ảnh hưởng chính trị một cách trực tiếp hơn bằng cách bí mật quyên góp tiền bạc cho các ứng cử viên ưa thích.
Bắc Kinh đặc biệt có nhiều sáng kiến trong việc sử dụng sức mạnh kinh tế. Chiến lược của họ là tài trợ xây dựng hạ tầng cơ sở ở các nước đang phát triển để làm chính phủ các nước đó phụ thuộc vào TQ, và do đó tuân thủ với TQ. Gần đây nhất, những nỗ lực đó đã hình thành Sáng kiến Vành đai và Con đường, một dự án hạ tầng cơ sở khổng lồ của khu vực được đưa ra vào năm 2013. TQ đã chi khoảng 400 tỷ đô la cho sáng kiến này (và đã cam kết đóng góp thêm hàng trăm tỷ đô la), và nó đã thuyết phục được 86 quốc gia và các tổ chức quốc tế ký kết khoảng 100 thỏa thuận hợp tác. Viện trợ của TQ, chủ yếu dưới hình thức cho vay từ các ngân hàng do Đảng Cộng sản TQ kiểm soát, không đi kèm với các điều kiện như của phương Tây thường có: không đòi hỏi phải cải cách thị trường hay phải quản trị tốt hơn. Tuy nhiên những gì TQ yêu cầu từ người nhận là sự đồng ý đối với một số vấn đề, gồm cả việc không công nhận Đài Loan.
Như nhà phân tích Nadège Rolland đã viết, Sáng kiến Vành đai và Con đường “nhằm mục đích cho phép TQ sử dụng tốt hơn lực lượng kinh tế đang phát triển của mình để đạt được mục đích chính trị cuối cùng mà không gây ra phản ứng đối kháng hoặc xung đột quân sự.” Điểm mấu chốt là Bắc Kinh tạo sự mơ hồ về phương diện quân sự của dự án này, từ đó tạo ra sự bất định trong nội bộ Washington về ý định thực sự của dự án. Nhiều nhà quan sát đã tự hỏi liệu Sáng kiến Vành đai và Con đường cuối cùng sẽ có một thành phần quân sự mạnh mẽ hay không, nhưng điều đó không phải là tâm điểm. Ngay cả khi sáng kiến này không phải là khúc dạo đầu cho sự hiện diện quân sự toàn cầu như kiểu Mỹ, và có lẽ nó không như vậy, TQ vẫn có thể sử dụng ảnh hưởng kinh tế và chính trị do dự án tạo ra để hạn chế phạm vi quyền lực của Mỹ. Ví dụ, nó có thể gây áp lực cho các quốc gia phụ thuộc TQ ở Châu Phi, Trung Đông và Nam Á từ chối quân đội HK quyền xâm nhập không phận hoặc tiếp cận các cơ sở trên mặt đất của các nước này.
Chủ nghĩa doanh thương TQ không bị giới hạn trong các lĩnh vực kinh tế và chính trị; nó cũng có thành phần sức mạnh cứng. Thật vậy, có lẽ không nơi nào Bắc Kinh có nhiều tính cách doanh thương hơn trong chiến lược quân sự. Học thuyết “chống tiếp cận / chống xâm nhập” (A2/AD) của TQ, là một sáng tạo tuyệt vời: bằng cách phát triển các khả năng quân sự bất đối xứng với chi phí tương đối thấp, quốc gia này đã có thể làm phức tạp thêm nhiều bất kỳ kế hoạch nào của HK nhằm giúp đỡ cho Nhật Bản, Philippines hoặc Đài Loan trong trường hợp chiến tranh. Ngoài ra thay vì đối đầu với HK để đẩy quân đội Mỹ ra khỏi khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, TQ đã tham gia vào các hoạt động tinh vi hơn, như quấy rối tàu và máy bay Mỹ bằng các phương tiện phi quân sự, cho phép nước này duy trì mức độ phủ nhận và không khuyến khích một phản ứng từ phía HK. Nhờ các chiến thuật như vậy, TQ đã đạt được những lợi ích chính trị và lãnh thổ đáng kể mà không vượt qua ngưỡng xung đột trực tiếp với HK hoặc các đồng minh của Mỹ.
TQ cũng tránh gây ra phản ứng phối hợp từ HK bằng cách cố tình trì hoãn việc hiện đại hóa quân đội. Nhà lãnh đạo TQ Đặng Tiểu Bình có câu nói nổi tiếng: “Giấu sức mạnh và ẩn nhẫn chờ thời cơ.” Vì các quốc gia có xu hướng rút ra những suy luận về ý định của kẻ thách thức từ quy mô và bản chất của các lực lượng quân sự, TQ đã chọn cách trước hết xây dựng các loại quyền lực khác như kinh tế, chính trị và văn hóa, để tạo một hình ảnh ít đe dọa hơn.
Vào những năm 1970, Đặng bắt đầu theo đuổi “bốn hiện đại hóa” – nông nghiệp, kỹ nghệ, khoa học kỹ thuật, và quốc phòng – mục tiêu hiện đại hóa quân sự được dành lại cho bước cuối cùng. Trong suốt những năm 1980, TQ tập trung trước hết vào việc xây dựng nền kinh tế; sau đó bổ sung sức mạnh kinh tế tư doanh với ảnh hưởng chính trị, gia nhập các định chế quốc tế trong suốt những năm 1990 và thập kỷ đầu tiên của thế kỷ này. Vào đầu thiên niên kỷ, quân đội TQ vẫn còn rất lạc hậu. Tàu chiến TQ không có khả năng đi xa một cách an toàn ngoài tầm nhìn từ bờ biển, phi công của TQ không rành bay vào ban đêm hoặc trên mặt nước, và các hỏa tiển hạt nhân của TQ dựa vào nhiên liệu lỏng lỗi thời. Hầu hết các đơn vị lục quân của TQ không có thiết bị cơ giới tối tân như xe tăng kiểu mới.
Mãi đến cuối những năm 1990 TQ mới bắt đầu hiện đại hóa quân đội một cách nghiêm túc. Và ngay cả lúc đó TQ tập trung nhiều vào các khả năng khống chế Đài Loan hơn là phát huy sức mạnh ra phạm vi rộng hơn. Ngoài ra TQ phát tín hiệu rằng họ tìm cách sử dụng quân đội vì lợi ích toàn cầu, với việc Hồ Cẩm Đào tuyên bố rằng các lực lượng của họ sẽ tập trung nhiều vào việc gìn giữ hòa bình và cứu trợ nhân đạo hơn là chiến tranh. Ngay cả học thuyết A2/AD khét tiếng của TQ ban đầu cũng được xem như là một cách hạn chế khả năng can thiệp của HK vào châu Á hơn là một phương pháp phát huy sức mạnh của TQ. Chỉ đến năm 2012 TQ mới hạ thủy chiếc hàng không mẫu hạm đầu tiên và mãi đến năm 2013 họ mới tiến hành cải cách cơ cấu để quân đội của họ có thể cạnh tranh trong tất cả lãnh vực với HK đang chiếm ưu thế ở khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương.
Khai thác khoảng trống
Một phần quan trọng khác trong chiến lược tích lũy quyền lực của TQ liên quan đến mối quan hệ của TQ với trật tự toàn cầu đang do HK lãnh đạo. Bắc Kinh đã tạo ra sự mơ hồ về các mục tiêu cuối cùng của họ bằng cách hỗ trợ trật tự Mỹ trong một số lĩnh vực và làm suy yếu nó ở những nơi khác. Cách tiếp cận chọn lựa này phản ánh thực tế rằng TQ được hưởng lợi rất nhiều từ một số lãnh vực của trật tự hiện tại. Tư cách thành viên thường trực trong Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc cho phép TQ giúp thiết lập chương trình nghị sự quốc tế và ngăn chặn các nghị quyết mà nó không đồng ý. Ngân hàng Thế giới đã cho TQ vay hàng chục tỷ đô la cho các dự án xây dựng hạ tầng cơ sở ở trong nước. Tổ chức Thương mại Thế giới mà TQ tham gia năm 2001, đã giúp rất nhiều việc TQ tiếp cận thị trường nước ngoài, dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng hàng hóa xuất cảng tạo động lực cho việc tăng trưởng kinh tế ấn tượng trong hơn một thập kỷ. Nhưng có những phần của trật tự thế giới mà TQ muốn thay đổi. Và TQ đã khám phá rằng bằng cách khai thác các khoảng trống hiện có, TQ có thể thay đổi trật tự thế giới mà không gây ra mối quan tâm ngay tức thời.
Khoảng trống đầu tiên của trật tự hiện có là địa lý. Một số lãnh thổ trên thế giới nằm ngoài vòng trật tự của Mỹ, vì các nơi này đã chọn lựa như vậy hoặc vì các nước đó không có ưu tiên cao đối với HK. Ở những vùng đó, nơi mà sự hiện diện của Kỳ có vẻ yếu ớt hoặc không tồn tại, TQ biết rằng họ có thể xâm nhập một cách đáng kể mà không khiêu khích HK. Do đó, lúc ban đầu TQ đã tập trung tận dụng sức mạnh kinh tế của mình để tạo ảnh hưởng ở Châu Phi, Trung Á và vùng Đông Nam Á. TQ cũng tăng cường nhanh chóng mối quan hệ chặt chẽ với các chế độ không lành mạnh mà cộng đồng quốc tế đã tẩy chay như Iran, Bắc Triều Tiên và Sudan, điều này phép TQ tăng cường sức mạnh chính trị mà không đe dọa vị thế của HK.
Khoảng trống thứ hai tùy theo chủ đề. Trong các lãnh vực mà trật tự hiện nay tỏ ra yếu kém, mơ hồ hoặc không tồn tại, TQ đã tìm cách thiết lập các tiêu chuẩn mới, những luật lệ, quy tắc và quy trình mới có lợi cho họ. Ví dụ về lãnh vực trí tuệ nhân tạo, TQ đang cố gắng định hình các quy tắc quản lý kỹ thuật mới này theo những cách có lợi cho các công ty của TQ, hợp pháp hóa việc sử dụng công nghệ này để giám sát người dân trong nước và làm suy yếu tiếng nói của các nhóm xã hội dân sự vì các nhóm này đã cung cấp thông tin cho các cuộc tranh luận về TQ ở châu Âu và Bắc Mỹ.
Trong khi đó về lãnh vực Internet, TQ đã thúc đẩy quan niệm về “chủ quyền không gian mạng”. Trái ngược với sự đồng thuận của phương Tây, quan điểm này cho rằng không gian mạng nên được quản lý chủ yếu bởi các quốc gia, thay vì bởi liên minh những bên liên quan và các quốc gia có quyền kiểm soát bất kỳ nội dung nào họ muốn trong phạm vi đất nước của họ. Để thay đổi quy tắc theo hướng này, TQ đã ngăn trở nỗ lực của HK trong việc đưa các nhóm xã hội dân sự vào Nhóm Chuyên gia Chính phủ của Liên hiệp quốc, là cơ quan thiết lập quy tắc về không gian mạng cho các chính phủ phương Tây. Kể từ năm 2014, TQ cũng đã tổ chức Hội nghị Internet Thế giới hàng năm của riêng mình để phổ biến quan điểm của TQ về quy định Internet.
Trong lĩnh vực hàng hải, TQ đang khai thác sự thiếu đồng thuận quốc tế về luật biển. Mặc dù HK khẳng định rằng tự do hàng hải của các tàu hải quân được quy định trong luật pháp quốc tế, nhiều quốc gia khác cho rằng tàu chiến không có quyền tự động đi ngang qua vùng lãnh hải của một quốc gia – quan điểm này không chỉ là của TQ mà còn được các đồng minh của HK như Ấn Độ ủng hộ. Bằng cách tận dụng những khác biệt này (và việc HK không phê chuẩn Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển), TQ có thể thử thách quan điểm tự do hoạt động hàng hải của HK trong khuôn khổ trật tự quốc tế hiện có.
Cạnh tranh mới
Nhờ chiến lược mới lạ này, TQ đã có thể phát triển thành một trong những quốc gia hùng mạnh nhất thế giới, có lẽ chỉ sau HK. Và nếu TQ theo đuổi kiên trì với chiến lược này, nó sẽ tiếp tục ở ngoài sự chú ý của HK. Nhưng các cường quốc đang trỗi dậy chỉ có thể trì hoãn sự khiêu khích trong một thời gian nào đó, và tin xấu cho HK – cho cả nền hòa bình và an ninh ở Châu Á – là TQ hiện đã bước vào giai đoạn đầu của một thách thức trực tiếp đối với trật tự thế giới do HK lãnh đạo.
Dưới thời Tập, TQ đang làm phân rã mạnh mẽ hệ thống liên minh của HK ở Châu Á. TQ đã khuyến khích Philippines rời xa HK, TQ đã hỗ trợ các nỗ lực của Hàn Quốc để có một đường lối mềm mại hơn đối với Bắc Triều Tiên, và TQ đã ủng hộ lập trường của Nhật Bản chống lại chủ nghĩa bảo hộ của Mỹ. TQ đang xây dựng các hệ thống quân sự tấn công có khả năng kiểm soát vùng biển và không phận trong cái gọi là chuỗi đảo đầu tiên và đang phát huy sức mạnh qua chuỗi đảo thứ hai. TQ ngang nhiên quân sự hóa Biển Đông, không còn dựa vào các tàu cá dân sự hay các cơ quan thực thi pháp luật trong nước để thực hiện quan niệm về chủ quyền của mình. TQ thậm chí đã bắt đầu tham gia vào các hoạt động quân sự bên ngoài châu Á, như việc thành lập căn cứ quân sự đầu tiên ở nước ngoài tại Djibouti. Tất cả những động thái này cho thấy một điều: TQ không còn bằng lòng để đóng vai trò thứ hai với HK và đang tìm cách thách thức trực tiếp vị trí của HK ở khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương.
Đối với HK, cạnh tranh với TQ ngày nay không thể là vấn đề đối đầu với một đất nước, hoặc như Ngoại trưởng Mike Pompeo đã nói vào tháng 10 năm 2018, kình chống nó ở mọi điểm. Washington nên tập trung vào việc xây dựng sức mạnh và ảnh hưởng của HK ở tất cả mọi nơi trên thế giới – làm cho HK trở nên hấp dẫn hơn trong tư cách là đối tác về chính trị, kinh tế và quân sự – thay vì chỉ làm suy yếu nỗ lực của TQ đang làm điều tương tự. Bằng cách tập trung vào việc cải thiện bản thân hơn là đối đầu, Washington có thể giảm nguy cơ tạo ra kẻ thù và gây ra xung đột không cần thiết.
Bước đầu tiên là HK nên mở rộng phạm vi của trật tự mà HK đang dẫn đầu, do đó làm bớt đi những khoảng trống mà TQ có thể khai thác. Trái ngược với thế giới quan của Tổng thống HK Donald Trump, thế giới cần nhiều trật tự hơn chứ không phải ít hơn. Washington nên thêm các định chế mới để bao gồm các khoản mà trật tự hiện nay không có và sửa đổi các phần đã lỗi thời của những định chế cũ. Ví dụ HK nên dẫn đầu trong nỗ lực cập nhật hóa Chế độ Kiểm soát Công nghệ Hỏa tiễn, là một thỏa ước đối tác thành hình năm 1987 để ngăn chặn sự phổ biến các hệ thống phân phối hạt nhân nhằm kiểm soát tốt hơn sự xuất hiện máy bay không người lái. HK cũng nên tạo ra các hiệp ước mới nhằm ngăn chặn chiến tranh trong không gian mạng (và ngay cả chiến tranh ngoài không gian). Khi TQ thành lập các tổ chức của riêng họ, như TQ đã làm với Ngân hàng Đầu tư Hạ tầng Cơ sở châu Á vào năm 2016, HK nên sớm tham gia để tác động đến sự phát triển của các tổ chức mới này thay vì cố gắng ngăn cản. Mục tiêu là xây dựng một trật tự quốc tế toàn diện hơn để không thể bị TQ kéo theo chiều hướng thiếu tự do.
HK cũng cần đẩy mạnh trò chơi kinh tế của mình. TQ có nhiều hiệp định thương mại chính thức gần bằng HK. Ở châu Á HK chỉ ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương với Úc, Singapore và Hàn Quốc. Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương, được ký kết bởi 12 quốc gia vào năm 2016, là một bước đi đúng hướng nhưng chính quyền Trump đã rút khỏi thỏa thuận được đề xuất, do đó đã bỏ qua một thỏa thuận thương mại tự do lớn nhất thế giới, chiếm 40% kinh tế toàn cầu. Thay vào đó, chính quyền Trump đã ưu tiên các chính sách bảo hộ, nên sẽ tạo điều kiện cho sự thống trị kinh tế của TQ ở châu Á. Như thể được gợi ý, TQ đã đưa ra một phiên bản tương tự như Đối tác xuyên Thái Bình Dương, gọi là Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực bao gồm 16 quốc gia châu Á.
Washington cũng nên suy nghĩ lại về chính sách hỗ trợ kinh tế. Để có được nhiều tác dụng hơn, HK cần phối hợp chặt chẽ hơn với các đồng minh. Ví dụ, tại Quần đảo Thái Bình Dương, HK thua xa TQ về thương mại, đầu tư và hỗ trợ phát triển. Nhưng bằng cách gộp các nguồn lực của HK với Úc, là nước đã công bố một dự án to lớn về hạ tầng cơ sở ở đó, HK có thể nhân rộng ảnh hưởng của mình trong khu vực. Tương tự như vậy ở Trung Á: nếu HK phối hợp các ưu tiên của mình với Nhật Bản, Thụy Sĩ và Anh quốc (là những nước có nhiều đầu tư trong khu vực), thì có thể thúc đẩy hiệu quả hơn các chính sách kinh tế và chính trị tự do ở đó. Tuy nhiên chỉ thuần túy hợp tác chưa đủ, Washington cũng cần tăng viện trợ đơn phương của riêng mình.
Một cách khác HK có thể duy trì lợi thế của mình lấy một gợi ý từ TQ là trở nên doanh thương hơn trong cách tạo dựng và thực thi quyền lực. Những phương pháp tiêu chuẩn mà Washington đã theo đuổi kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc sẽ không còn hiệu nghiệm nữa. Ví dụ nếu HK bất bình với một quốc gia vì vấn đề vi phạm nhân quyền, thì việc trừng phạt bằng cách giảm hoặc cắt đứt quan hệ kinh tế và ngoại giao với quốc gia đó sẽ có nguy cơ nhượng bộ về ảnh hưởng cho TQ là một nước ít quan tâm về vấn đề nhân quyền. Thay vào đó, Washington nên tăng cường quan hệ với chính phủ không lành mạnh đó, theo đuổi lợi ích của HK không chỉ ở cấp độ ngoại giao mà còn ở cấp độ người dân. Tương tự khi nói đến quan hệ về mặt quân sự, HK cần nâng cấp những phương pháp của mình. Các chuyến thăm bến cảng, triển lãm hàng không, và thậm chí cả các cuộc tập trận và bán vũ khí với nước ngoài thường chỉ mang tính biểu tượng và không thể hiện cam kết của HK đối với một quốc gia. Hiệu quả hơn nhiều trong việc chuẩn bị cho xung đột sẽ là những nỗ lực tạo ra nhận thức về mối đe dọa chung thông qua việc tăng cường chia sẻ thông tin tình báo và lập kế hoạch dự phòng chung.
Các nhà hoạch định chính sách của HK cũng phải tiến hành xem xét kỹ lưỡng về những chi phí nào xứng đáng hay không xứng đáng chi tiêu để duy trì vị thế thống trị của HK ở Châu Á. Hầu hết đều đồng ý rằng HK nên cố gắng duy trì ưu thế mình trong khu vực thông qua các biện pháp cạnh tranh nhưng hòa bình. Tuy nhiên điều trớ trêu là nếu HK thành công trong việc đó thì xác suất xung đột với TQ có thể tăng lên. Lý do vì các nhà lãnh đạo TQ hoàn toàn tin tưởng rằng nếu không khôi phục quốc gia của họ là một số phận tồi tệ còn hơn chiến tranh, và họ sẽ không né tránh một cuộc xung đột nếu đó là điều cần thiết để thành công. Do đó nếu các nhà lãnh đạo HK cho rằng cần bảo vệ ưu thế của HK ở châu Á, họ nên chuẩn bị cho trường hợp phải sử dụng sức mạnh quân sự. Điều tồi tệ nhất trong tất cả các trường hợp là vì không thể cạnh tranh trong hòa bình nên phải chấp nhận sức mạnh của TQ, và sau đó khi một cuộc xung đột nổ ra mới quyết định rằng giữ ưu thế của HK ở châu Á là quan trọng. Tuy nhiên lúc đó HK sẽ ở một vị trí yếu kém để chiến thắng.
HK cũng phải xem xét những chi phí mà họ sẵn sàng chịu tốn kém để bảo vệ các quốc gia ở châu Á không phải là đồng minh của họ nhưng nếu các quốc gia này khuất phục TQ thì sẽ đe dọa các nguyên tắc nền tảng của trật tự quốc tế. Ví dụ ở Biển Đông, HK tuyên bố rằng các hoạt động hải quân của họ nhằm bảo vệ nguyên tắc tự do hàng hải chung, nhưng trên thực tế HK tỏ ra chỉ sẵn sàng bảo vệ quyền đi lại của tàu Mỹ và đồng minh. Sự thất bại của Washington trong việc đứng lên bênh vực những nước không phải là đồng minh đang bị hạn chế quyền tự do hàng hải khiến cho vị trí ưu việt của HK gặp rủi ro. Vì vậy HK nên bắt đầu đặt nền móng cho một liên minh, tương tự như lực lượng đặc nhiệm chống cướp biển mà HK phát triển ở Vịnh Aden, những tàu của HK sẽ hộ tống bất kỳ tàu nào cần được bảo vệ ở Biển Đông, không kể quốc tịch.
Các kịch bản khác thậm chí còn thảm khốc hơn. Khi vòng cải cách quân sự đầu tiên của TQ hoàn thành, dự kiến là vào khoảng năm 2025, Bắc Kinh sẽ muốn thử nghiệm khả năng mới của mình trước một quốc gia yếu kém không được Mỹ bảo vệ. Lấy ví dụ Việt Nam. Mặc dù HK không có nghĩa vụ bảo vệ đất nước này, nhưng nếu TQ dùng vũ lực xâm chiếm một hòn đảo ở Biển Đông mà Việt Nam hiện đang chiếm giữ và Washington đứng yên không can thiệp, thì vai trò của HK là người bảo đảm hòa bình trong khu vực sẽ bị nghi ngờ, và TQ sẽ trở nên bạo dạn hơn. Do đó Washington cần phải chuẩn bị cho một trường hợp khá lạ lẫm là sử dụng lực lượng quân sự để bảo vệ một quốc gia không có liên minh.
Vươn lên theo tình hình
Cạnh tranh siêu quyền lực không chỉ đơn thuần về tính toán quân sự hay sức kéo kinh tế. HK cũng cần tái cam kết bảo vệ các giá trị của mình. Một số người ở Washington có vẻ khao khát về khả năng hoàn thành công việc của Bắc Kinh, một phần nhờ vào sự coi thường các quy tắc tự do. Thật vậy, loại chủ thuyết vô thần này mang lại cho TQ một lợi thế. Nó có thể giành chiến thắng trong việc thu hút các chính phủ châu Á bằng cách tung tiền bạc mà không kèm theo những điều kiện ràng buộc, các doanh nghiệp nhà nước TQ không chỉ nhận được sự hỗ trợ của chính phủ họ mà còn lấy được những thông tin bí mật kinh tế thông qua hoạt động gián điệp, và hệ thống chính trị độc tài của TQ giúp kiểm soát dễ dàng mặt tuyên truyền về các mục tiêu và hành động của chính phủ TQ cả trong và ngoài nước. Nhưng TQ có một nhược điểm chết người: các nhà lãnh đạo của họ đã thất bại trong việc đưa ra một viễn kiến về sự thống trị toàn cầu có lợi cho bất kỳ quốc gia nào ngoài TQ. Đó là lý do tại sao, không giống như HK, TQ chỉ thích làm việc với các đối tác yếu để có thể dễ dàng kiểm soát.
Để cạnh tranh, Washington không thể hạ mình xuống cấp độ của Bắc Kinh. HK mặc dù không có một hồ sơ hoàn hảo chứng tỏ đã làm đúng các giá trị của nó, nhưng nhìn chung HK đã chọn lựa con đường dẫn đầu thế giới theo cách đảm bảo rằng những người khác cũng được hưởng lợi. Bây giờ không phải là lúc từ bỏ phương pháp tiếp cận hợp dung này. Washington nên hỗ trợ các định chế quốc tế tạo nên một trật tự có tự do. HK nên dành nguồn lực lớn hơn để bảo vệ các đồng minh và đối tác của mình. Và trong hỗ trợ kinh tế, HK nên tập trung vào phẩm chất thay vì số lượng, tìm cách đảm bảo rằng càng nhiều người có lợi từ sự phát triển. Điều khiến HK trở thành số một là vì HK có tư duy toàn cầu, không phải tư duy “nước Mỹ trước hết.” Chỉ bằng cách mở rộng phạm vi của các giá trị tự do của chính mình, HK mới có thể vượt qua thách thức của TQ.
Canada 27/12/2018
Nguồn:
Nhận xét
Đăng nhận xét