Những cuộc di dân lặng lẽ (tiếp theo)
Thứ Sáu, 02/23/2018 - 09:59 — nguyenvubinh
…
- Môi trường xã hội. Vấn đề nhức nhối và đáng buồn nhất trong môi trường xã hội ở Việt Nam, đó là việc cộng sản đã hủy diệt tình người, tình yêu thương của con người. Với mục đích thiết lập và duy trì sự thống trị, cộng sản đã hủy hoại tình người một cách có bài bản và hệ thống. Việc tấn công hủy diệt các tôn giáo chính là hủy diệt cơ sở của tình yêu thương của con người. Sống dưới chế độ cộng sản, con người trở nên thờ ơ, vô cảm, ích kỷ và ác độc với nhau. Rất nhiều những dẫn chứng có thể đưa ra chứng minh cho việc con người đối xử với nhau tàn nhẫn, độc ác. Vừa qua, trong dịp Tết Mậu Tuất, đã có hơn 4000 người người nhập viện vì đánh nhau trong cả nước (có năm kỷ lục là 6000 người).
- Thực phẩm. Đến thời điểm này, có lẽ không ai ở Việt Nam không biết và không ghê sợ tình trạng thực phẩm bẩn, độc hại tràn lan không cách gì kiểm soát được. Thực phẩm bẩn và độc hại đến từ hai nguồn, nhập khẩu từ Trung Quốc và người Việt tự tạo ra để trục lợi. Nhà cầm quyền hoàn toàn bất lực trong việc kiểm soát nguồn thực phẩm độc hại, trong khi vẫn duy trì những cơ quan kiểm tra, giám sát, kiểm nghiệm thực phẩm. Hậu quả trực tiếp là số người bị ung thư của Việt Nam là 94.000 người mỗi năm. Tốc độ tăng số người bị ung thư nhanh nhất thế giới. Năm 1990, cả nước ước tính có 70.000 ca ung thư, đến năm 2015 là 150.000 bệnh nhân mới.
Tổng hợp tất cả các nguyên nhân trên, tất nhiên vẫn còn một số nguyên nhân nữa, người dân Việt Nam đã cảm nhận được sự bế tắc và tương lại xám xịt ngay chính trên quê hương, đất nước mình. Vì vậy, khi có bất cứ cơ hội nào, họ đều bỏ nước ra đi tìm cho mình một tương lai mới, tươi sáng hơn.
III/ Các sắc thái của cuộc di dân
Gia đoạn từ 1990 tới nay, phần lớn những người ra đi là sự lựa chọn tự nguyện. Tuy nhiên, vẫn còn một số nhỏ người tỵ nạn chính trị, việc ra đi là do sức ép trực tiếp từ phía nhà cầm quyền. Đó là những người sắc tộc thiểu số, những người Thượng, những người theo đạo ở Tây Nguyên bị đàn áp, bắt bớ đã phải bỏ trốn sang những nước lân cận như Cam-pu-chia, Thái Lan. Một số người là nạn nhân của chính sách cướp đất và đàn áp tôn giáo như giáo dân giáo xứ Cồn Dầu, Đà Nẵng… cuối cùng là những người hoạt động, đấu tranh dân chủ lánh nạn ở các nước xung quanh, và những người đang trong nhà tù, ra đi để thoát cảnh tù đày và tiếp tục đấu tranh tại các quốc gia họ định cư. Tỵ nạn chính trị giai đoạn này không còn là lý do bảo vệ sinh mạng mà chỉ do cộng sản triệt đường sống và thoát khỏi sự tù đày.
Đối với những người tự lựa chọn ra đi, không phải lý do chính trị, chúng ta thấy có những vấn đề xung quanh cuộc di dân lặng lẽ sau đây.
1/ Những người ra đi vì động cơ kinh tế
Thật ra, không có ai, hoặc có rất ít người ra đi đơn thuần vì động cơ kinh tế. Vấn đề chỉ là trong các thứ tự ưu tiên thì động cơ kinh tế xếp ở vị trí số một, nên chúng ta tạm gọi họ ra đi vì động cơ kinh tế. Đây là động cơ của phần lớn những người ra đi, và thực tế số lượng cũng là nhiều nhất. Đó là những người đi xuất khẩu lao động, cả chính thức và xuất khẩu chui. Một làn sóng xuất khẩu lao động để giảm biên chế cuối những năm 80; làn sóng vượt biên sang Hồng Công cũng trong thời kỳ đó… Cuộc sống của những người này ở các quốc gia mới định cư không hề dễ dàng, cũng rất vất vả nhưng thu nhập và môi trường sống vẫn hơn hẳn Việt Nam. Trong số những thành phần này, phần lớn vẫn muốn tiếp tục cuộc sống ở các quốc gia định cư, và tìm cách ở lại, gia hạn hoặc trở về rồi đi tiếp. Một số nhỏ trở về vì không hội nhập được, hoặc gia đình ở Việt Nam cần họ hơn.
2/ Du học và định cư ở nước ngoài
Từ khi hội nhập trở lại với thế giới, số lượng du học sinh của Việt Nam ngày càng gia tăng. Những năm gần đây, số du học sinh tăng mạnh. Hiện tại có trên 130.000 du học sinh ở gần 50 quốc gia trên thế giới. Với nền giáo duc nhồi sọ và thất bại toàn diện hiện nay, nhiều người đã ví việc học sinh, sinh viên đi du học là tình trạng tỵ nạn về giáo dục. Đa số du học sinh ra nước ngoài đều mong muốn được tiếp cận với nền giáo dục tiên tiến và để có công việc tốt hơn trong tương lai. Khi đã tiếp xúc với nền giáo dục và xã hội các nước phát triển, phần lớn du học sinh không muốn trở về Việt Nam để làm việc, công tác. Tình trạng này nhiều người đã gọi là quá trình “chảy máu chất xám”. Đây là nỗi đau của một dân tộc khi những con người tài năng, trí tuệ không được làm việc và cống hiến cho quê hương, đất nước. Một ví dụ điển hình, 16 học sinh đạt quán quân cuộc thi Đường lên đỉnh Olimpia (mỗi năm một học sinh) đến nay duy nhất có một người trở về làm việc ở Sài Gòn, số còn lại đều đầu quân cho các trường đại học và công ty ở Úc…
(còn nữa)
Hà Nội, ngày 23/02/2018
N.V.B
------------
Những cuộc di dân lặng lẽ (tiếp theo và hết)
Thứ Bảy, 02/24/2018 - 10:45 — nguyenvubinh
…
3/ Các quốc gia định cư và cuộc sống mới của người Việt
Về các quốc gia mà người Việt định cư, cũng theo bài viết trên báo Vietnam Finance, hầu hết người Việt Nam di cư đến các nước phát triển, trong đó tập trung đông nhất là ở Mỹ (hơn 1,3 triệu người), Pháp (125,7 nghìn người), Đức (gần 113 nghìn người), Canada (182,8 nghìn người), Úc (227,3 nghìn người), Hàn Quốc (114 nghìn người),... Tại các nước Đông Âu, và một số nước châu Á như Lào, Campuchia, Malaysia mỗi nước có khoảng trên 10.000 người Việt di cư đến đây.
Cuộc sống của người Việt, như đã đề cập, không hề dễ dàng tại những quốc gia định cư. Ngôn ngữ và văn hóa mới là những rào cản buộc họ phải vượt qua. Nhưng với phẩm chất cần cù, chịu khó và nỗ lực bền bỉ, phần lớn người Việt đã hội nhập thành công. Một số ít còn làm được những việc đáng tự hào, đó là thành tích trong học tập, sáng tạo ở các lĩnh vực. Đã có nhiều người có ý kiến rằng, với con người Việt Nam, tư duy tiểu nông, có nhiều tật xấu dù có ở đâu cũng không phát triển được (ám chỉ tình trạng của Việt Nam ngày nay là do tính cách và phẩm chất, tật xấu của người Việt), thì những thành tựu mà người Việt Nam đạt được, đã đập tan luận điệu thổi phồng tật xấu và đổ thừa cho người dân thay vì nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng đất nước hiện nay là do cơ chế, do bản chất chế độ hiện hành.
IV/ Đàn Chim Việt sẽ trở về
Với tình trạng đất nước như hiện nay, việc người Việt ra đi mặc dù tạo ra một cảm giác bùi ngùi, nuối tiếc cho người ở lại, nhưng ai cũng hiểu được và chia sẻ. Có một câu hỏi đặt ra, nếu quê hương không còn cộng sản, một chế độ dân chủ sẽ thay thế chế độ độc tài toàn trị cộng sản, người Việt sẽ có về quê hương xây dựng lại đất nước hay không? câu trả lời là có, không phải tất cả nhưng sẽ là phần lớn bởi những lý do sau.
- Lòng yêu nước của người Việt là một dấu son, điểm sáng. Nói đến lòng yêu nước, không ít người sẽ liên tưởng tới việc lạm dụng thuật ngữ này của cộng sản, sử dụng vào những mục đích kinh tởm. Nhưng bản thân ngôn ngữ không có tội, khi gọi đúng tên sự vật hiện tượng, nó còn có tác dụng khích lệ và động viên tinh thần rất lớn. Người Việt yêu nước với một tình cảm đặc biệt, đã được kiểm chứng trong lịch sử. Lòng yêu nước là nguyên nhân cốt lõi để người Việt giữ được nước Việt hàng ngàn năm trước một lân bang hùng mạnh và luôn nhòm ngó, cũng như khi có cơ hội là thôn tính. Lòng yêu nước khiến cho người Việt xa xứ dù đã có gia đình, nhà cửa, cuộc sống đầy đủ ở cách xa hàng vạn dặm vẫn ngày đêm đau đáu, trăn trở và thao thức cùng vận mệnh dân tộc. Hàng ngày họ vẫn lên mạng xã hội để tìm kiếm những thông tin về tình hình đất nước, về tình hình phong trào dân chủ. Họ cũng giao lưu, trao đổi và chia sẻ với anh em, bạn bè, các hội nhóm những hiểu biết và kinh nghiệm của họ trong cuộc sống cũng như khi đối đầu với cộng sản. Không những vậy, rất nhiều đồng bào còn lo lắng, giúp đỡ cho những anh chị em đấu tranh bị bắt, tù đày và đánh đập. Họ giúp đỡ tận tình, vô tư trong khả năng của mình… Chính lòng yêu nước sẽ là sợi dây, kết nối và khi đất nước không còn cộng sản sẽ kéo họ trở về trong lòng dân tộc. Tôi hoàn toàn tin tưởng sự trở về của những con dân Việt, ít nhất đó là những người có tuổi thơ ở Việt Nam.
- Phần lớn những người di cư, cả trước đây và trong cuộc di dân lặng lẽ, đều còn gốc rễ ở Việt Nam. Đó là cha mẹ, hoặc anh chị em ruột, họ hàng, bạn bè của họ. Chỉ có một số rất ít không còn gốc rễ và không còn người thân, liên đới ở Việt Nam. Nhu cầu giao lưu tình cảm với người thân, họ hàng và bạn bè cũng là một nhu cầu quan trọng. Mặt khác, dù ở các quốc gia có điều kiện sống, có cuộc sống đầy đủ bao nhiêu chăng nữa thì nơi đó cũng không phải là môi trường tự nhiên của họ. Môi trường tự nhiên là nơi mà ngôn ngữ, văn hóa bẩm sinh của con người, ai nói gì, làm gì, sinh hoạt ra sao chỉ cần nhìn qua là biết, là hiểu. Họ chỉ tách khỏi môi trường tự nhiên khi cuộc sống quá khó khăn, khổ sở. Khi cuộc sống khó khăn khổ sở qua đi, được trở lại với môi trường tự nhiên của mình, rất ít người từ chối. Chỉ có những người Việt thế hệ thứ hai, thứ ba ở các quốc gia tạm cư, vấn đề trở về Việt Nam mới đặt ra thành thử thách. Bởi vì những người này sinh ra và lớn lên chính trong môi trường quốc gia tạm cư, nên môi trường tự nhiên của họ lại là ở các quốc gia họ đang sống. Thế hệ những người ra đi trong cuộc di dân lặng lẽ phần lớn đều sinh ra và có tuổi thơ ở Việt Nam, nên sự trở về của họ sẽ rất nhẹ nhàng, đơn giản.
- Lý do cuối cùng cho sự trở về của người dân Việt, đó là việc xây dựng một chế độ, một nhà nước mới tạo ra vô số cơ hội cho những người có khả năng để thi thố. Với các quốc gia tạm cư, tất cả mọi vấn đề đã ổn định, đã đi vào nề nếp từ rất lâu, cơ hội để thể hiện, sáng tạo không nhiều như ở quê hương khi xây dựng lại đất nước. Một chế độ, một thể chế mới được xây dựng vừa kích thích tinh thần sáng tạo, vừa là cơ hội để lưu danh sử sách sẽ thu hút được rất nhiều nhân tài đất Việt rải rác muôn phương về tụ hội. Điều này cũng trở nên khả thi hơn khi cùng với những thuận lợi vừa nêu, những người trở về còn có cơ hội đóng góp để khôi phục quê hương, đất nước thân yêu của mình.
Khi chế độ cộng sản sụp đổ, Đàn Chim Việt sẽ trở về để khôi phục, xây dựng lại quê hương. Đó là điều người viết bài này và rất nhiều người khác mong đợi, tin tưởng. Và ngày đó chắc chắn sẽ không còn xa nữa./.
Hà Nội, ngày 24/02/2018
N.V.B
Nhận xét
Đăng nhận xét