Viêt - Trung: Cân bằng Địa lý và Lịch sử
28/08/2017
Quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam đã bắt đầu hồi phục kể từ tháng 6, sau khi Tướng Phạm Trường Long cắt ngắn chuyến thăm Hà Nội và hủy bỏ cuộc tập kết xuyên biên giới cho quân đội hai nước nhằm củng cố sự tin tưởng lẫn nhau.
Nguyên nhân của vụ việc là hợp đồng khoan dầu ở Biển Đông mà Hà Nội đã ký kết với công ty Repsol của Tây Ban Nha. Không giống như lần trước, lần này Bắc Kinh đe dọa sẽ thực hiện các biện pháp quân sự nếu Hà Nội không ngừng và chấm dứt việc khoan dầu. Trong vòng một tuần lễ, Việt Nam thực sự hủy bỏ hợp đồng và đồng ý trả hàng triệu đô la bồi thường cho Repsol.
Đồng chí mới và cũ: Bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch gặp Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ James Mattis, và Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã ôm lấy Chủ tịch Hồ Chí Minh trong một cuộc gặp vào năm 1950 |
Mối đe dọa quân sự trực tiếp của Trung Quốc đối với Việt Nam cho thấy sự leo thang căng thẳng ở Biển Đông, và việc Hà nội nhanh chóng khấu đầu Bắc Kinh đã khiến nhiều người đổ lỗi cho chính sách đối ngoại hướng nội của Trump. "Tuần lễ Donald Trump đã đánh mất biển Nam Trung Hoa" là tiêu đề của bài viết của nhà báo Anh Bill Hayton viết cho tạp chí Chính sách đối ngoại.
Điều này không công bằng. Một tuần sau đó, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Ngô Xuân Lịch tới Washington, gặp mặt Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ James Mattis. Tướng Lịch, ủy viên thường vụ Quân uỷ Trung ương được biết đến như một nhà tư tưởng cứng rắn. Tuy nhiên, tướng Lịch xuất hiện ở thủ đô nước Mỹ với một nụ cười hiếm hoi và tuyên bố rằng, lần đầu tiên trong lịch sử song phương, Việt Nam chấp nhận đề xuất một tàu sân bay Hoa Kỳ cập cảng Việt nam.
Ý tưởng cho một cuộc viếng thăm như vậy đã được hoãn lại nhiều lần - một chuyến như vậy có thể đã diễn ra khi Tổng thống Bill Clinton thực hiện chuyến viếng thăm Việt Nam vào năm 2000. Gần đây nhất, ông Trump cũng là người đề nghị việc cập cảng này, nhưng chính vì áp lực của quân đội Trung Quốc để cho những người đứng đầu quân uỷ trung ương hâm nóng ý định này. Chuyến thăm của tướng Lịch thực sự phù hợp với một khuôn mẫu chính sách lâu dài của Việt Nam đối với Trung Quốc và Hoa Kỳ. Hà Nội chỉ muốn Washington trợ giúp khi Trung Quốc đe doạ, nhưng trong tim họ lại đánh giá cao tình hữu nghị của Bắc Kinh.
Vì tình đồng chí gần gũi
Giống như Việt Nam, Trung Quốc là một nước xã hội chủ nghĩa. Mối quan hệ giữa hai đảng cộng sản bắt đầu từ những năm 1920, khi chàng thanh niên Hồ Chí Minh làm việc cùng với đồng chí Chu Ân Lai để vận động nông dân ở miền Nam Trung Quốc. Rất ít đảng phái chính trị có thể khoe khoang về một tình đồng chí quốc tế kéo dài cả thế kỷ. Ngay sau khi Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai nắm quyền ở Trung Quốc, họ ủng hộ cuộc cách mạng Việt Nam bằng cách gửi vũ khí và cố vấn, giúp quân đội của ông Hồ giành chiến thắng quyết định tại Điện Biên Phủ năm 1954.
Trong Chiến tranh Việt Nam, Bắc Kinh là anh cả cũng như nhà tài trợ hào phóng nhất của Hà Nội. Bắc Kinh đã gửi cho Hà Nội hàng tỷ đô la tiền mặt, lương thực và viện trợ quân sự ngay cả khi hàng triệu người Trung Quốc chết đói. Trong những năm 1960, hơn 100.000 lính Trung Quốc đã đóng quân tại Bắc Việt Nam trong khi những người lính Việt nam được đưa vào Nam chiến đấu.
Mối quan hệ chuyển biến đáng kể khi chiến tranh kết thúc. Hà Nội đã xem lời mời của Mao dành cho Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon để đến thăm Bắc Kinh năm 1972 như là một hành động phản bội đáng khinh. Với cả Bắc Kinh và Mátxcơva cùng lôi kéo sự chú ý của Washington và chiến thắng của người Việt vào năm 1975, các nhà lãnh đạo Việt Nam bắt đầu tưởng tượng họ là những người tiên phong của cách mạng thế giới. Tham vọng thống trị Đông Dương của họ đã làm cho Đặng Tiểu Bình nổi giận, Đặng Tiểu Bình đã xua nửa triệu quân vượt biên giới vào năm 1979 để dạy cho người Việt Nam “vô ơn” một bài học.
Cuộc chiến biên giới giữa những người anh em cộng sản kéo dài đến cuối những năm 1980. Khi khối Xô Viết sụp đổ và trại đóng quân do Mỹ lãnh đạo xuất hiện thành công, Hà Nội cảm thấy bị đe dọa và nhanh chóng quay sang Bắc Kinh, xin lỗi về cuộc chiến tranh và đề xuất một liên minh chống đế quốc mới. Mặc dù Bắc Kinh từ chối đề xuất, các quan hệ song phương đã được khôi phục vào năm 1991.
Để chứng minh một bài học đã được học hỏi, các nhà lãnh đạo Hà Nội đã thay đổi hiến pháp để loại bỏ các đoạn văn chống Trung Quốc. Trong khi Việt Nam long trọng tổ chức các cuộc chiến tranh chống lại Pháp và Hoa Kỳ mỗi năm, cuộc chiến năm 1979 với Trung Quốc đã bị xoá khỏi ký ức công chúng. Các phương tiện truyền thông nhà nước bị cấm đưa những tin tức tiêu cực về xã hội, nền kinh tế hoặc chính trị ở Trung Quốc, và các biên tập viên vi phạm đã bị kỷ luật nhanh chóng.
Đi theo tiếng gọi của trái tim
Để thu hút viện trợ và đầu tư nước ngoài rất cần thiết một khi khối Xô Viết không còn nữa, Hà Nội muốn mở rộng quan hệ với nước ngoài, tuyên bố Việt Nam hoan nghênh tình hữu nghị với tất cả các nước. Tuy nhiên, một bản ghi nhớ nội bộ của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam cho thấy đảng đã phân biệt giữa "những người bạn gần gũi và không gần gũi" tùy thuộc vào ý thức hệ của họ.
Việt Nam phục hồi quan hệ với Hoa Kỳ năm 1995 và ký một hiệp định song phương vào năm 2001. Khi cải cách thị trường phát triển, Việt Nam đã đạt được thành công đáng kể về xuất khẩu như hải sản, gạo và cà phê. Hoa Kỳ trở thành thị trường xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam, cho phép quốc gia này kiếm được hàng tỷ đô la thặng dư thương mại.
Khi Trung Quốc kéo một giàn khoan khổng lồ trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam vào năm 2014, ngay cả khi Hà Nội gửi các tàu tuần tra bờ biển bao vây lực lượng hải quân Trung Quốc đang bảo vệ giàn khoan, thì Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã cố gắng gọi Tập Cận Bình hàng chục lần, với hy vọng là Tập Cận Bình sẽ nghe máy. Ngoài đường, người Việt phản đối ôn hoà chống lại Trung Quốc đã bị các lực lượng an ninh đánh đập có khi rất tàn bạo. Ông Trọng sau đó đã viếng thăm Washington, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên có chuyến đi như vậy.
Sau cuộc đối đầu giàn khoan, những lời chỉ trích Trung Quốc xuất hiện trên báo chí Việt Nam. Tuy nhiên, không có dấu hiệu nào cho thấy Hà Nội đã thay đổi cơ bản chiến lược của họ, trong đó những chuyển đổi rụt rè về phía Hoa Kỳ chỉ được thực hiện khi Bắc Kinh lấn lướt. Với sự lãnh đạo của những người trung thành với Mác-Lênin trong đội ngũ lãnh đạo hàng đầu được bầu tại Đại hội Đảng lần thứ 12 năm 2016, sẽ có ít khả năng thay đổi như vậy.
Việc tướng Lịch hoan nghênh chuyến thăm của một tàu sân bay Mỹ là một dấu hiệu không hài lòng hơn bất kỳ sự đảo ngược quyết liệt nào trong chính sách của Việt Nam đối với Trung Quốc. Vụ việc Repsol đã để lại cho Hà Nội bằng một vết thâm tím, và Hà nội muốn Bắc Kinh biết rằng họ không vui. Tuy nhiên, giống như một người phối ngẫu bị ngược đãi chỉ gọi cảnh sát sau khi bị đánh đập nhưng rồi từ chối chấm dứt mối quan hệ, Hà Nội sẽ nghe theo tiếng nói trái tim và không sớm thoát khỏi Bắc Kinh.
Phương Thảo dịch
(VNTB)
Nhận xét
Đăng nhận xét