Cần làm gì để Đối thoại nhân quyền không là số 0?
Vào những lần đối thoại nhân quyền Việt – Mỹ trước đây, phía Việt Nam luôn hứa, thậm chí hứa hẹn rất nhiều về đủ thứ ‘Việt Nam luôn quan tâm và bảo vệ quyền con người’ như tự do tôn giáo tự do báo chí, tự do hội họp, quyền của người lao động, tù nhân chính trị… Chỉ có điều lịch sử của các kỳ đối thoại nhân quyền Việt – Mỹ vẫn thường khá trắc trở và luôn bị biến dạng ngay sau cái bắt tay kết thúc một kỳ họp. Bởi sau đó, chính thể độc đảng và giới công an trị ở Việt Nam đã không thực hiện hứa hẹn của mình, hoặc thậm chí làm ngược lại hứa hẹn, nghĩa là gia tăng đàn áp và bắt bớ người bất đồng và nhà hoạt động nhân quyền.
Lại số 0?
Còn trong Đối thoại nhân quyền thường niên lần thứ 22 giữa Việt Nam và Hoa Kỳ diễn ra ngày 17/5/2018 tại Washington DC, ấn tượng đáng ghi nhận nhất của là thậm chí còn không có nổi một lời hứa nào của phía Việt Nam được đưa ra trong cuộc đối thoại này – theo thông tin của ông Scott Busby, Phó Trợ lý Ngoại Trưởng Mỹ thuộc văn phòng phụ trách vấn đề dân chủ, nhân quyền, và lao động cho Đài Á Châu Tự Do (RFA).
Cho dù Bộ Ngoại giao Mỹ vẫn tiếp tục nêu quan ngại về tình trạng nhân quyền Việt Nam và nêu một số trường hợp đặc biệt, yêu cầu phía Việt Nam phải trả tự do ngay lập tức, trong đó có hai trường hợp đặc biệt mà Hoa Kỳ nhấn mạnh là blogger Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh – người đã nhận giải ‘Phụ Nữ Quả Cảm’ từ Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vào năm 2017, và luật sư Nguyễn Văn Đài cùng những người cùng cộng tác trong Hội Anh Em Dân Chủ…
Có lẽ không thái quá khi cho rằng về thực chất, kết quả của Đối thoại nhân quyền Việt – Mỹ năm 2018 chỉ là con số 0.
Nhìn lại 2017
Vào năm 2017, kết quả của Đối thoại nhân quyền Việt – Mỹ thậm chí còn bị âm.
Cuộc Đối thoại nhân quyền Mỹ – Việt trong bối cảnh năm 2017 thậm chí còn có lợi thế khá lớn so với Đối thoại nhân quyền Mỹ – Việt 2018 khi giới chóp bu Việt Nam đã phải chủ động bắn tiếng về một chuyến thăm Mỹ dành cho Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, với mục đích quan trọng là nhằm đạt được Hiệp định thương mại song phương Việt – Mỹ – một nhu cầu quá thiết thân được giới chóp bu Việt Nam đặt lên ưu tiên hàng đầu trong chính sách đu dây chính trị và làm tất cả để giữ được “sự tồn vong của chế độ”, trong tình cảnh nền kinh tế đang hội tụ khá nhiều dấu hiệu khủng hoảng.
2017 cũng là bối cảnh mà giới nghị sĩ Mỹ, đặc biệt là nhóm “Vietnam Caucus” bao gồm vài chục nghị sĩ Mỹ quan tâm đến vấn đề Việt Nam – gia tăng áp lực đòi hỏi cải thiện nhân quyền đối với Hà Nội để đổi lấy thương mại với Mỹ. “Tùy Việt Nam thôi” – những thủ lĩnh của nhóm này như Thượng nghĩ sĩ Alan Lowenthal đã tuyên bố như vậy.
Nhưng từ giữa năm 2016, chiến dịch bắt bớ người hoạt động nhân quyền đã được chính quyền và công an đẩy cao và liên tục.
Kết quả Đối thoại nhân quyền Mỹ – Việt 2017 đã đánh dấu một thực tế mà khó dùng từ nào khác hơn là “thất bại” đối với phái đoàn đối thoại của bà Virginia Bennett – Trợ lý bộ trưởng ngoại giao về dân chủ, nhân quyền và lao động, một chính khách mới trong chính quyền Donald Trump và có lẽ chưa có mấy kinh nghiệm về các thủ thuật trả treo nhân quyền của giới lãnh đạo Việt Nam.
Kết quả mà bà Bennett nhận được bằng những lời hứa hẹn chung chung và xảo ngôn của trưởng đoàn đối thoại nhân quyền Việt Nam – một quan chức chỉ ở cấp vụ trưởng Bộ Ngoại giao và năm nào cũng có nhiệm vụ thông báo những lời hứa hẹn không hề được bảo chứng như thế – là sau cuộc đối thoại này đã không có gì được cải thiện.
Thậm chí sau khi Thủ tướng Phúc kết thúc cuộc gặp với Tổng thống Trump ở Mỹ mà đã không nhận được tín hiệu nào về Hiệp định thương mại song phương Việt – Mỹ, thậm chí còn bị Trump “đòi nợ” về tình trạng nhập siêu quá nhiều của Mỹ đối với Việt Nam trong lúc Trump lại gần như không quan tâm đến vấn đề nhân quyền, giới cầm quyền Việt Nam đã bắt bớ đến gần ba chục nhà hoạt động nhân quyền chỉ riêng trong năm 2017, đồng thời đưa ra xử tù cực kỳ nặng nề đối với họ.
Trước tình trạng chính quyền Việt Nam gia tăng đàn áp người bất đồng, có vẻ phía Mỹ đã phải tạm ngưng đàm phán nhân quyền, dù cơ chế đối thoại nhân quyền giữa Mỹ và Việt Nam được duy trì 2 lần mỗi năm. Vào cuối năm 2017, đã không có đối thoại nhân quyền Việt – Mỹ nào diễn ra.
Cần làm gì?
Sau Đối thoại nhân quyền Việt – Mỹ, ông Scott Busby trả lời đài RFA: ‘Chúng tôi đã nói với họ như đã nói trước kia rằng nếu không có sự tiến bộ và hợp tác trong vấn đề nhân quyền, bao gồm tự do tôn giáo và quyền của người lao động, mối quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam không thể đạt được triển vọng toàn bộ’.
Nhưng cụ thể là cần làm gì? Cần làm gì để Đối thoại nhân quyền Việt – Mỹ không thể bế tắc?
Một dấu hỏi lớn đang được nêu ra là vì sao đã có trong tay một vũ khí nhân quyền rất sắc sảo là Luật Nhân quyền Magnitsky Toàn cầu (Global Magnitsky Human Rights Accountability Act) - đã được Quốc hội Mỹ chính thức thông qua vào ngày 8/12/2016, người Mỹ lại chưa hề áp dụng những biện pháp chế tài thích đáng của đạo luật này đối với giới quan chức Việt nam kể từ đó đến nay?
Theo Luật Nhân quyền Magnitsky Toàn cầu, những quan chức vi phạm nhân quyền sẽ bị chế tài theo hai cách. Thứ nhất, cấm nhập cảnh Hoa Kỳ kể cả đi công vụ. Nếu muốn được miễn trừ lệnh cấm này thì Tổng thống phải có sự miễn trừ đặc biệt và phải giải thích với Quốc hội. Thứ hai, chính phủ Mỹ đóng băng tất cả các tài sản của những cá nhân vi phạm nhân quyền, cho dù họ che giấu bằng bất kỳ hình thức nào hay gửi gắm ai đứng tên.
Tại rất nhiều các nước độc tài, kẻ vi phạm nhân quyền cũng chính là những tay tham nhũng lớn, giấu của cải ở các nước phương Tây. Quan trọng hơn, Luật Nhân quyền Magnitsky Toàn cầu áp dụng với tất cả các loại nhân quyền được quốc tế công nhận. Theo luật này, những người cưỡng đoạt tài sản của nhân dân cũng bị xem là những kẻ vi phạm nhân quyền nghiêm trọng. Tình trạng dân oan bị mất đất ở Việt Nam lại rất phổ biến. Những giới chức tham nhũng mà trừng trị những người tố cáo tham nhũng cũng bị xem là vi phạm nhân quyền nghiêm trọng.
Từ năm 2015, một Dân Biểu Mỹ là Ed Royce cũng đã đệ trình ra Quốc hội dự luật về chế tài nhân quyền Việt Nam, và hiện thời dự luật này đang được đưa ra Hạ viện xem xét. Theo dự luật này, vấn đề chính yếu không chỉ là hạn chế những khoản tín dụng và viện trợ có tính cách ưu đãi từ phương Tây, mà cả thực hiện những biện pháp chế tài đối với những trường hợp quan chức Việt Nam vi phạm nhân quyền nghiêm trọng.
Nếu Dự luật chế tài nhân quyền Việt Nam được Quốc hội Hoa Kỳ thông qua, sẽ tương tự tình trạng chế tài nhân quyền đối với Nga và Syria khi hàng loạt nhân vật cao cấp và kể cả trung cấp của giới lãnh đạo Việt Nam bị đưa tên vào “sổ đen nhân quyền” của Mỹ và Liên minh châu Âu, để từ đó những người này sẽ không được nhập cảnh vào Mỹ, cùng lúc tài khoản, tài sản của họ, kể cả của người thân của họ, sẽ bị Mỹ và Liên minh châu Âu phong tỏa tại bất kỳ ngân hàng hoặc địa điểm quốc tế nào mà nước Mỹ có thể với tay tới.
Cũng từ năm 2015 đến nay, Ủy hội Tự do tôn giáo Hoa Kỳ và nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế cùng nhiều thượng nghị sĩ Mỹ đã đòi Chính phủ Hoa Kỳ phải đưa Việt Nam trở lại Danh sách CPC (Danh sách các quốc gia cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo). Nếu Việt Nam đã được Mỹ nhấc khỏi Danh sách này vào năm 2006, thì nay lại đang khá gần với triển vọng “tái hòa nhập” CPC. Nếu bị đưa vào CPC một lần nữa, có nhiều khả năng Việt Nam sẽ bị áp dụng cơ chế cấm vận từng phần về kinh tế và cả quốc phòng. Khi đó, nền kinh tế Việt Nam vốn đã chênh vênh bên bờ vực thẳm, sẽ càng dễ sa chân sụp đổ. Cơ chế cấm vận này cũng sẽ khiến con đường để Việt Nam tiếp cận Hiệp định thương mại song phương với Mỹ là chông gai hơn hẳn hiện thời, nếu không nói là vô vọng.
Hoa Kỳ có khá đầy đủ ưu thế để thiết lập biện pháp chế tài nhân quyền trên cơ sở cán cân thương mại với Việt Nam.
Có một điểm khác biệt cơ bản giữa năm nay và năm ngoái: vào năm 2018, tình hình kinh tế và ngân sách của Việt Nam còn tồi tệ hơn cả năm 2017.
Bởi Việt Nam vẫn đang cần đến Mỹ hơn bao giờ hết trên phương diện thương mại, nhất là làm sao để duy trì được số xuất siêu hơn 30 tỷ USD vào Mỹ mỗi năm để bù đắp cho hơn 40 – 50 tỷ USD Việt Nam phải nhập siêu từ Trung Quốc cứ sau 12 tháng.
Sau nhiều năm quần quật nếm trải với Việt Nam về nhân quyền, rốt cuộc có vẻ người Mỹ đã rút ra một bài học đắt giá: đặc tính của chính quyền Việt Nam là luôn dùng tù nhân lương tâm để mặc cả về các hiệp định kinh tế, thương mại và viện trợ. Nhưng khi đạt được mục đích của mình, chính quyền Việt Nam lập tức trở mặt và bắt bớ người hoạt động nhân quyền.
Nếu không ở vào thế cùng quẫn về kinh tế và ngân sách, nếu không bị chế tài về lợi ích cá nhân, bản chất sẵn sàng vi phạm nhân quyền của chế độ toàn trị và giới quan chức ở Việt Nam sẽ không bao giờ thay đổi.
Một trong những bài học kinh nghiệm thành công nhất của người Mỹ chính là Miến Điện.
Nhiều thông tin cho biết sự hiện diện của một bản danh sách của Mỹ bao gồm tới 5000 cái tên quan chức quân đội và dân sự Miến Điện – liên đới đàn áp nhân quyền và tham nhũng mà phải bị chế tài về nhập cảnh vào Mỹ và phong tỏa tài sản cá nhân – đã góp phần không nhỏ khiến thể chế quân phiệt của Miến Điện phải chuyển đổi sang bầu không khí dân chủ hóa kể từ năm 2011.
Lại số 0?
Còn trong Đối thoại nhân quyền thường niên lần thứ 22 giữa Việt Nam và Hoa Kỳ diễn ra ngày 17/5/2018 tại Washington DC, ấn tượng đáng ghi nhận nhất của là thậm chí còn không có nổi một lời hứa nào của phía Việt Nam được đưa ra trong cuộc đối thoại này – theo thông tin của ông Scott Busby, Phó Trợ lý Ngoại Trưởng Mỹ thuộc văn phòng phụ trách vấn đề dân chủ, nhân quyền, và lao động cho Đài Á Châu Tự Do (RFA).
Cho dù Bộ Ngoại giao Mỹ vẫn tiếp tục nêu quan ngại về tình trạng nhân quyền Việt Nam và nêu một số trường hợp đặc biệt, yêu cầu phía Việt Nam phải trả tự do ngay lập tức, trong đó có hai trường hợp đặc biệt mà Hoa Kỳ nhấn mạnh là blogger Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh – người đã nhận giải ‘Phụ Nữ Quả Cảm’ từ Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vào năm 2017, và luật sư Nguyễn Văn Đài cùng những người cùng cộng tác trong Hội Anh Em Dân Chủ…
Có lẽ không thái quá khi cho rằng về thực chất, kết quả của Đối thoại nhân quyền Việt – Mỹ năm 2018 chỉ là con số 0.
Nhìn lại 2017
Vào năm 2017, kết quả của Đối thoại nhân quyền Việt – Mỹ thậm chí còn bị âm.
Cuộc Đối thoại nhân quyền Mỹ – Việt trong bối cảnh năm 2017 thậm chí còn có lợi thế khá lớn so với Đối thoại nhân quyền Mỹ – Việt 2018 khi giới chóp bu Việt Nam đã phải chủ động bắn tiếng về một chuyến thăm Mỹ dành cho Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, với mục đích quan trọng là nhằm đạt được Hiệp định thương mại song phương Việt – Mỹ – một nhu cầu quá thiết thân được giới chóp bu Việt Nam đặt lên ưu tiên hàng đầu trong chính sách đu dây chính trị và làm tất cả để giữ được “sự tồn vong của chế độ”, trong tình cảnh nền kinh tế đang hội tụ khá nhiều dấu hiệu khủng hoảng.
2017 cũng là bối cảnh mà giới nghị sĩ Mỹ, đặc biệt là nhóm “Vietnam Caucus” bao gồm vài chục nghị sĩ Mỹ quan tâm đến vấn đề Việt Nam – gia tăng áp lực đòi hỏi cải thiện nhân quyền đối với Hà Nội để đổi lấy thương mại với Mỹ. “Tùy Việt Nam thôi” – những thủ lĩnh của nhóm này như Thượng nghĩ sĩ Alan Lowenthal đã tuyên bố như vậy.
Nhưng từ giữa năm 2016, chiến dịch bắt bớ người hoạt động nhân quyền đã được chính quyền và công an đẩy cao và liên tục.
Kết quả Đối thoại nhân quyền Mỹ – Việt 2017 đã đánh dấu một thực tế mà khó dùng từ nào khác hơn là “thất bại” đối với phái đoàn đối thoại của bà Virginia Bennett – Trợ lý bộ trưởng ngoại giao về dân chủ, nhân quyền và lao động, một chính khách mới trong chính quyền Donald Trump và có lẽ chưa có mấy kinh nghiệm về các thủ thuật trả treo nhân quyền của giới lãnh đạo Việt Nam.
Kết quả mà bà Bennett nhận được bằng những lời hứa hẹn chung chung và xảo ngôn của trưởng đoàn đối thoại nhân quyền Việt Nam – một quan chức chỉ ở cấp vụ trưởng Bộ Ngoại giao và năm nào cũng có nhiệm vụ thông báo những lời hứa hẹn không hề được bảo chứng như thế – là sau cuộc đối thoại này đã không có gì được cải thiện.
Thậm chí sau khi Thủ tướng Phúc kết thúc cuộc gặp với Tổng thống Trump ở Mỹ mà đã không nhận được tín hiệu nào về Hiệp định thương mại song phương Việt – Mỹ, thậm chí còn bị Trump “đòi nợ” về tình trạng nhập siêu quá nhiều của Mỹ đối với Việt Nam trong lúc Trump lại gần như không quan tâm đến vấn đề nhân quyền, giới cầm quyền Việt Nam đã bắt bớ đến gần ba chục nhà hoạt động nhân quyền chỉ riêng trong năm 2017, đồng thời đưa ra xử tù cực kỳ nặng nề đối với họ.
Trước tình trạng chính quyền Việt Nam gia tăng đàn áp người bất đồng, có vẻ phía Mỹ đã phải tạm ngưng đàm phán nhân quyền, dù cơ chế đối thoại nhân quyền giữa Mỹ và Việt Nam được duy trì 2 lần mỗi năm. Vào cuối năm 2017, đã không có đối thoại nhân quyền Việt – Mỹ nào diễn ra.
Cần làm gì?
Sau Đối thoại nhân quyền Việt – Mỹ, ông Scott Busby trả lời đài RFA: ‘Chúng tôi đã nói với họ như đã nói trước kia rằng nếu không có sự tiến bộ và hợp tác trong vấn đề nhân quyền, bao gồm tự do tôn giáo và quyền của người lao động, mối quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam không thể đạt được triển vọng toàn bộ’.
Nhưng cụ thể là cần làm gì? Cần làm gì để Đối thoại nhân quyền Việt – Mỹ không thể bế tắc?
Một dấu hỏi lớn đang được nêu ra là vì sao đã có trong tay một vũ khí nhân quyền rất sắc sảo là Luật Nhân quyền Magnitsky Toàn cầu (Global Magnitsky Human Rights Accountability Act) - đã được Quốc hội Mỹ chính thức thông qua vào ngày 8/12/2016, người Mỹ lại chưa hề áp dụng những biện pháp chế tài thích đáng của đạo luật này đối với giới quan chức Việt nam kể từ đó đến nay?
Theo Luật Nhân quyền Magnitsky Toàn cầu, những quan chức vi phạm nhân quyền sẽ bị chế tài theo hai cách. Thứ nhất, cấm nhập cảnh Hoa Kỳ kể cả đi công vụ. Nếu muốn được miễn trừ lệnh cấm này thì Tổng thống phải có sự miễn trừ đặc biệt và phải giải thích với Quốc hội. Thứ hai, chính phủ Mỹ đóng băng tất cả các tài sản của những cá nhân vi phạm nhân quyền, cho dù họ che giấu bằng bất kỳ hình thức nào hay gửi gắm ai đứng tên.
Tại rất nhiều các nước độc tài, kẻ vi phạm nhân quyền cũng chính là những tay tham nhũng lớn, giấu của cải ở các nước phương Tây. Quan trọng hơn, Luật Nhân quyền Magnitsky Toàn cầu áp dụng với tất cả các loại nhân quyền được quốc tế công nhận. Theo luật này, những người cưỡng đoạt tài sản của nhân dân cũng bị xem là những kẻ vi phạm nhân quyền nghiêm trọng. Tình trạng dân oan bị mất đất ở Việt Nam lại rất phổ biến. Những giới chức tham nhũng mà trừng trị những người tố cáo tham nhũng cũng bị xem là vi phạm nhân quyền nghiêm trọng.
Từ năm 2015, một Dân Biểu Mỹ là Ed Royce cũng đã đệ trình ra Quốc hội dự luật về chế tài nhân quyền Việt Nam, và hiện thời dự luật này đang được đưa ra Hạ viện xem xét. Theo dự luật này, vấn đề chính yếu không chỉ là hạn chế những khoản tín dụng và viện trợ có tính cách ưu đãi từ phương Tây, mà cả thực hiện những biện pháp chế tài đối với những trường hợp quan chức Việt Nam vi phạm nhân quyền nghiêm trọng.
Nếu Dự luật chế tài nhân quyền Việt Nam được Quốc hội Hoa Kỳ thông qua, sẽ tương tự tình trạng chế tài nhân quyền đối với Nga và Syria khi hàng loạt nhân vật cao cấp và kể cả trung cấp của giới lãnh đạo Việt Nam bị đưa tên vào “sổ đen nhân quyền” của Mỹ và Liên minh châu Âu, để từ đó những người này sẽ không được nhập cảnh vào Mỹ, cùng lúc tài khoản, tài sản của họ, kể cả của người thân của họ, sẽ bị Mỹ và Liên minh châu Âu phong tỏa tại bất kỳ ngân hàng hoặc địa điểm quốc tế nào mà nước Mỹ có thể với tay tới.
Cũng từ năm 2015 đến nay, Ủy hội Tự do tôn giáo Hoa Kỳ và nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế cùng nhiều thượng nghị sĩ Mỹ đã đòi Chính phủ Hoa Kỳ phải đưa Việt Nam trở lại Danh sách CPC (Danh sách các quốc gia cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo). Nếu Việt Nam đã được Mỹ nhấc khỏi Danh sách này vào năm 2006, thì nay lại đang khá gần với triển vọng “tái hòa nhập” CPC. Nếu bị đưa vào CPC một lần nữa, có nhiều khả năng Việt Nam sẽ bị áp dụng cơ chế cấm vận từng phần về kinh tế và cả quốc phòng. Khi đó, nền kinh tế Việt Nam vốn đã chênh vênh bên bờ vực thẳm, sẽ càng dễ sa chân sụp đổ. Cơ chế cấm vận này cũng sẽ khiến con đường để Việt Nam tiếp cận Hiệp định thương mại song phương với Mỹ là chông gai hơn hẳn hiện thời, nếu không nói là vô vọng.
Hoa Kỳ có khá đầy đủ ưu thế để thiết lập biện pháp chế tài nhân quyền trên cơ sở cán cân thương mại với Việt Nam.
Có một điểm khác biệt cơ bản giữa năm nay và năm ngoái: vào năm 2018, tình hình kinh tế và ngân sách của Việt Nam còn tồi tệ hơn cả năm 2017.
Bởi Việt Nam vẫn đang cần đến Mỹ hơn bao giờ hết trên phương diện thương mại, nhất là làm sao để duy trì được số xuất siêu hơn 30 tỷ USD vào Mỹ mỗi năm để bù đắp cho hơn 40 – 50 tỷ USD Việt Nam phải nhập siêu từ Trung Quốc cứ sau 12 tháng.
Sau nhiều năm quần quật nếm trải với Việt Nam về nhân quyền, rốt cuộc có vẻ người Mỹ đã rút ra một bài học đắt giá: đặc tính của chính quyền Việt Nam là luôn dùng tù nhân lương tâm để mặc cả về các hiệp định kinh tế, thương mại và viện trợ. Nhưng khi đạt được mục đích của mình, chính quyền Việt Nam lập tức trở mặt và bắt bớ người hoạt động nhân quyền.
Nếu không ở vào thế cùng quẫn về kinh tế và ngân sách, nếu không bị chế tài về lợi ích cá nhân, bản chất sẵn sàng vi phạm nhân quyền của chế độ toàn trị và giới quan chức ở Việt Nam sẽ không bao giờ thay đổi.
Một trong những bài học kinh nghiệm thành công nhất của người Mỹ chính là Miến Điện.
Nhiều thông tin cho biết sự hiện diện của một bản danh sách của Mỹ bao gồm tới 5000 cái tên quan chức quân đội và dân sự Miến Điện – liên đới đàn áp nhân quyền và tham nhũng mà phải bị chế tài về nhập cảnh vào Mỹ và phong tỏa tài sản cá nhân – đã góp phần không nhỏ khiến thể chế quân phiệt của Miến Điện phải chuyển đổi sang bầu không khí dân chủ hóa kể từ năm 2011.
Nhận xét
Đăng nhận xét