ASEAN VÀ BIỂN ĐÔNG: NHỮNG CHIA RẼ NGÀY CÀNG SÂU SẮC
Tài liệu Tham khảo đặc biệt
Thứ bảy, ngày 21/7/2012
TTXVN (Oasinhtơn 20/7)
Ngày 16/7, Hội đồng nghiên cứu châu Á (NBR), một tổ chức nghiên cứu độc lập của Mỹ, đăng bài phỏng vấn Tiến sĩ Ian Storey, chuyên gia về Biển Đông của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á về những diễn biến gần đây liên quan tới Biển Đông. Sau đây là nội dung bài phỏng vấn:
Thảo luận về căng thẳng gia tăng trong tranh chấp chủ quyền lãnh hải ở Biển Đông là một ưu tiên hàng đầu của các bộ trưởng ngoại giao tại Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) ở Campuchia từ ngày 11-12/7. Trong những tháng gần đây, khu vực đã chứng kiến sự tăng cường quân sự của các quốc gia có tranh chấp, sự bế tắc có tính đối đầu bằng hải quân giữa Trung Quốc và Việt Nam, việc Trung Quốc mời thầu thăm dò 9 lô dâu khí trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, và các vụ việc qua lại không thân thiện khác. Những sự cố này đã làm cho Biển Đông trở thành vấn đề nóng bỏng giữa các nước tranh chấp và mối lo ngại trong cộng đồng quốc tế.
NBR đã phỏng vấn Ian Storey về những hiểu biết của ông đối với các diễn biến tại Biển Đông, những chia rẽ giữa các thành viên ASEAN tại cuộc họp của các nhà lãnh đạo ASEAN gần đây ở Campuchia, và điều này có nghĩa gì cho sự ổn định khu vực.
NBR: Tranh cãi về Biển Đông đã leo thang như thế nào trong năm qua? Điều gì đã thúc đẩy sự leo thang?
Ian Storey: Căng thẳng ở Biển Đông có xu hướng mang tính chu kỳ. Trong sáu tháng đầu năm 2011 có sự gia tăng đột ngột, sau đó tương đối yên tĩnh trong nửa sau của năm. Trong sáu tháng đầu năm 2012, căng thẳng bắt đầu tăng trở lại, đạt đỉnh điểm hồi tháng Năm, tháng Sáu khi Trung Quốc và Philíppin cùng điều tàu tuần tra dân sự tới bãi đá ngầm Scarborough. Căng thẳng chính trị trong tranh chấp Biển Đông lên đến đỉnh điểm tại các cuộc họp của các nhà lãnh đạo ASEAN gần đây tại Phnôm Pênh. Những chia rẽ sâu sắc trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) trong vấn đề này đã được thấy rõ khi lần đầu tiên trong lịch sử 45 năm của tổ chức, các bộ trưởng ngoại giao không ra được một tuyên bố cuối cùng. Đồng thuận không đạt được vì Philíppin và Campuchia không đồng ý về việc sự cố bãi đá ngầm Scarborough nên được đề cập trong tuyên bố. Sự kiện ở Phnôm Pênh cho thấy rõ ràng vụ tranh chấp ở Biển Đông không những đang trở thành một vấn đề gây tranh cãi giữa Trung Quốc và một số nước ASEAN có tranh chấp, mà còn làm sâu sắc thêm những chia rẽ trong chính ASEAN.
Trong khi căng thẳng có thể là theo chu kỳ, các động cơ trung tâm vẫn không thay đổi: chủ nghĩa dân tộc đang lên liên quan đến quyền sở hữu các đảo san hô ở Biển Đông, sự cạnh tranh quyền tiếp cận các nguồn tài nguyên biển, và sự quân sự hóa các tranh chấp hiện đang diễn ra. Những gì chúng ta thấy trên Biển Đông là hiện tượng hành động – phản ứng, trong đó các bên tranh chấp ở Đông Nam Á (đặc biệt là Philíppin và Việt Nam) phản ứng với những gì họ cho là sự quyết đoán của Trung Quốc ngày càng tăng, trong khi Trung Quốc phản ứng mạnh với những gì họ thấy là bất hợp pháp và hành động khiêu khích của các nước láng giềng nhỏ hơn. Nếu xu hướng hiện nay vẫn tồn tại, chu kỳ này sẽ tiếp tục và có thể đẩy nhanh.
NBR: Biển Đông được cho là vấn đề an ninh hàng đầu trong chương trình nghị sự của hội nghị ARF gần đây tại Campuchia. Trước hội nghị ARF, các bộ trưởng ngoại giao ASEAN đã thông báo ý định của họ sẽ đồng ý trên văn bản cho một Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC) để đàm phán với Trung Quốc. Điều gì đã ngăn cản thỏa thuận giữa các bộ trưởng ngoại giao ASEAN? Làm thế nào để một bộ quy tắc ứng xử sẽ là hữu ích trong việc làm giảm căng thẳng?
Ian Storey: Cuối năm 2011, ASEAN và Trung Quốc đã đồng ý bắt đầu đàm phán về COC, một thỏa thuận chính thức và có tính ràng buộc. Các thành viên ASEAN bắt đầu thảo luận về các nguyên tắc hướng dẫn cho COC hồi tháng Giêng, nhưng quá trình này nhanh chóng gặp vấn đề do sự chia rẽ trong ASEAN, giữa các thành viên có tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông và những nước không có (và thậm chí chia rẽ giữa chính các nước ASEAN có tranh chấp, gồm Philíppin, Việt Nam, Malaixia, và Brunây). Philíppin muốn bộ quy tắc ứng xử không chỉ là cơ chế quản lý xung đột, mà còn giải quyết xung đột, và đã đề nghị trong năm 2011 là muốn đưa Biển Đông thành một “khu vực hòa bình, hữu nghị, tự do và trung lập.” Các thành viên khác dường như chống lại động thái này.
Cuối cùng một văn bản có tính thỏa hiệp đã được đưa ra, phác thảo “các yếu tố được đề nghị” cho COC. Tôi đã xem tài liệu này, và khá thất vọng về nó. Không có điều gì mới, và chắc chắn không có điều gì khiến nó có tính “ràng buộc pháp lý” như hình dung ban đầu. Tài liệu xác định một số cơ chế hiện hành giải quyết vụ tranh chấp theo luật pháp quốc tế, có thế là Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ), Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), trong đó bao gồm một cơ quan được gọi là Toà án quốc tế về Luật Biển (ITLOS), có thể trong số những thứ khác, ra các phán quyết về tranh chấp ranh giới biển; và Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ASEAN (TAC) 1976 mà Trung Quốc tham gia vào năm 2003 và bao gồm điều khoản thành lập một ủy ban giải quyết tranh chấp giữa các thành viên. Tuy nhiên, tất cả đều có tác dụng hạn chế khi nói đến việc đạt được một giải pháp để giải quyết tranh chấp. ‘Trung Quốc đã loại bỏ khả năng sử dụng trọng tài pháp lý tại cả Tòa án Quốc tế lẫn ITLOS, và ủy ban kia đã không bao giờ được hoạt động và trong bất kỳ trường hợp nào, sẽ bị chính trị hóa cao độ (điều này là lý do tại sao một số thành viên ASEAN đã chọn cách đệ trình tranh chấp lãnh thổ song phương lên Tòa án Quốc tế).
Vì thế, bản thân các yếu tố được đề xuất đã không đủ mạnh, và điều này đã được thông báo trước khi ASEAN ngồi cùng với Trung Quốc để bàn thỏa thuận cuối cùng. Tôi đoán rằng Trung Quốc sẽ đòi hỏi loại bỏ tất cả các ngôn ngữ đề cập đến cơ chế giải quyết tranh chấp vói lý do đây là vấn đề song phương cần được giải quyết giữa Trưng Quốc với từng nước tuyên bố chủ quyền. Tổng thư ký ASEAN, Surin Pitsuwan, muốn COC được ký kết trong tháng Mười Một, nhân dịp kỷ niệm mười năm Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC). Nếu ASEAN và Trung Quốc đạt được thỏa thuận về một bộ quy tắc ứng xử (và Thứ trưởng ngoại giao Trung Quốc Phó Oánh đã tuyên bố sẽ chỉ ký một thỏa thuận như vậy “khi thời điểm chín muồi “), nó có thể nặng về mặt biểu tượng và nhẹ về mặt nội dung. Do đó, một thỏa thuận khó có thể có một tác động đáng kể nào đối với việc giảm căng thẳng ở Biển Đông hay đưa tranh chấp đi gần hơn tới giải pháp.
NBR: Có bất kỳ tiến bộ nào về Biển Đông, như Ngoại trưởng Hillary Clinton đã kêu gọi trước hội nghị ARF, hay không?
Ian Storey: Không có. Nhưng xin được thẳng thắn nói rằng với những chia rẽ trong ASEAN, và sự chống đối của Trung Quốc với việc đưa ra thảo luận tranh chấp tại ARF, chắc chắn rằng không bao giờ có bất kỳ tiến bộ nào. Hơn nữa, hãy nhớ rằng ARF không phải là nơi để giải quyết tranh chấp. Nó chỉ là một diễn đàn cho 27 bộ trưởng ngoại giao thảo luận về các vấn đề an ninh khu vực.
NBR: Hai tuần trước hội nghị ARF, Trung Quốc thông báo sẽ triển khai các đơn vị tuần tra hải quân và không quân “sẵn sàng chiến đấu” tới quần đảo Trường Sa. Điều này đã làm thay đối các động lực và tư duy của khu vực về Trung Quốc và Biển Đông như thế nào?
Ian Storey: Tôi nghi ngờ rằng Trung Quốc ra thông báo này sau tuyên bố của Việt Nam rằng họ sẽ có các chuyến bay tuần tra thường xuyên trên quần đảo Trường Sa bằng các máy bay chiến đấu SU-30. Nó là một ví dụ khác về hành động – phản ứng tôi đã đề cập. Tuy nhiên, cả hai diễn biến này cung cấp thêm bằng chứng rằng các bên tranh chấp đang có lập trường cứng rắn hơn đối với tuyên bố lãnh thổ và biển của họ và gửi thông điệp tới các bên có tuyên bố chủ quyền khác rằng họ chuẩn bị sẵn sàng sử dụng lực lượng quân sự nếu bị bắt buộc. Tuy nhiên, nói một cách thành thật, có một mức độ thể hiện vị thế nhất định đang diễn ra, và tôi không cho rằng sẽ xảy ra một cuộc xung đột lớn trên Biển Đông trong thời gian tới. Tuy nhiên, việc thể hiện vị thế một cách cứng rắn và với tần số ngày càng tăng các sự cố trên biển (như bế tắc ở bãi đá ngầm Scarborough) làm tăng nguy cơ xảy ra va chạm không cố ý mà có thể leo thang thành một cuộc khủng hoảng quân sự hay chính trị nghiêm trọng hơn. Đối với tôi, nó chỉ là vấn đề thời gian trước khi một trong số các sự cố trở nên thực sự tồi tệ và sẽ có những người bị chết và bị thương.
NBR: Ngay trước hội nghị ARF, Trung Quốc đã mời thầu thăm dò dầu khí tại chín lô trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Thông báo này của Trung Quốc có hàm ý gì?
Ian Storey: Tôi nghĩ rằng đây là một diễn biến rất đáng lo ngại. Trung Quốc đã từ chối làm rõ hiệu lực chính xác của bản đồ đường đứt khúc chín đoạn, nhưng một số chuyên gia đã phát biếu rằng Bắc Kinh đang dần dần đưa tuyên bố của mình phù hợp với UNCLOS. Tuy nhiên, thông báo của Công ty dầu khí hải dương Trung Quốc (CNOOC) mời thầu chín lô này lại cho thấy điều ngược lại. Nó chỉ ra rằng đường đứt khúc chín đoạn đại diện cho giới hạn ngoài cùng của những gì mà Trung Quốc gọi là “quyền lịch sử” trên Biển Đông, bao gồm cả quyền sở hữu các nguồn tài nguyên biển như dầu, khí đốt, cá và khoáng chất. Trong khi UNCLOS cho phép các quốc gia thực hiện “quyền lịch sử” trong vùng lãnh hải của họ, quyền này không mở rộng đến các vùng biển sâu. Hơn nữa, chín lô này rõ ràng nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam, và do đó thông báo mời thầu của CNOOC không phù hợp với UNCLOS và vi phạm các quyền chủ quyền của Việt Nam. Do tính pháp lý mơ hồ của thông báo mời thầu của CNOOC, tôi thực sự nghi ngờ rằng sẽ có bất kỳ công ty năng lượng quốc tế nào đấu thầu thăm dò các lô này.
NBR: Các nhà bình luận ở Philíppin đã cáo buộc Trung Quốc sử dụng thế nước lớn để bắt nạt các nước láng giềng, sau một bế tắc gần đây giữa hai nước tại quần đảo Trường Sa đang trong tranh chấp. Sự hiện diện của quân đội Mỹ có cần thiết để cân bằng quyền lực trong khu vực hay không? Hiệp ước phòng thủ chung Mỹ-Philíppin (MDT) tác động đến sự tham gia của Mỹ như thế nào?
Ian Storey: Nhiều nước châu Á thấy rằng quốc gia duy nhất có khả năng duy trì một sự cân bằng quyền lực là Mỹ. Trong bối cảnh của một Trung Quốc đang trỗi dậy, các nước Đông Nam Á nói chung đã hoan nghênh việc Mỹ “xoay trục” hay “tái cân bằng” đối với châu Á, hay đúng hơn là họ hoan nghênh lời nói trong khi vẫn không chắc chắn về cam kết lâu dài của Mỹ, do khó khăn về tài chính.
Phản ứng trước những gì mà họ cho là sự quyết đoán của Trung Quốc ngày càng tăng tại quần đảo Trường Sa, Philíppin đã xem xét để tăng cường mối quan hệ đồng minh với Mỹ và đã đề nghị Oasinhtơn chuyển giao trang thiết bị quân sự dư thừa để củng cố khả năng của các lực lượng vũ trang Philíppin. Manila cũng đã tìm cách làm rõ với Oasinhtơn về việc áp dụng MDT với các tình huống tại Biển Đông. Manila dường như nghĩ rằng MDT áp dụng cho các tình huống trong khu vực, trong khi quan điểm của Mỹ là các đảo ở Trường Sa không thuộc phạm vi MDT bởi vì Philíppin chỉ chính thức tuyên bố chủ quyền với các đảo này năm 1978, tức 27 năm sau khi hiệp ước được ký kết. Tuy nhiên, theo các điều khoản của MDT, hai bên sẽ có nghĩa vụ tham khảo ý kiến nếu các lực lượng vũ trang Philíppin (AFP) bị tấn công trên Biển Đông. Mặc dù Mỹ đã ủng hộ mạnh mẽ bằng lời nói đối với quan hệ liên minh với Philíppin, trong trường hợp xảy ra một cuộc đụng độ trên Biển Đông, sự viện trợ của Mỹ cho AFP sẽ “tùy thuộc vào tình hình.”
NBR: Vai trò của các cường quốc khu vực như Nhật Bản, Ấn Độ và Ôxtrâylia trong tranh chấp Biển Đông là gì?
Ian Storey: Các nước như Nhật Bản, Ấn Độ và Ôxtrâylia đã bày tỏ mối quan ngại về các diễn biến tiêu cực tại Biển Đông và tiềm năng bất ổn hơn nữa, thậm chí xung đột. Điều này là dễ hiểu vì sự ổn định ở Biển Đông rất quan trọng đối với tất cả các quốc gia có giao thương trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương vì các tuyến đường biển bận rộn là huyết mạch cho thương mại toàn cầu. Nhật Bản nói riêng đã trở nên ngày càng quan tâm đến tình hình vì 90% lượng dầu nhập khẩu của họ phụ thuộc vào những tuyến đường biển và vì họ sợ rằng nếu Trung Quốc thuyết phục hoặc ép buộc các nước khác chấp nhận giải thích luật pháp quốc tế theo cách của họ, điều này sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới lợi ích của Nhật Bản (bao gồm cả tranh chấp với Trung Quốc về quyền sở hữu của quần đảo Senkaku/Điếu Ngư). Theo đó, Nhật Bản đã cố gắng để thúc đẩy đoàn kết trong khối ASEAN trong “các vấn đề an ninh hàng hải “(Biển Đông) và đã bắt đầu hỗ trợ xây dựng năng lực cho Cảnh sát biển Philíppin. Ấn Độ và Ôxtrâylia không thực sự tham gia tranh chấp, nhưng tôi đoán rằng họ sẽ tiếp tục bày tỏ mối quan tâm tại các diễn đàn an ninh đa phương.
NBR: Chính trị nội bộ đóng vai trò như thế nào trong các cách tiếp cận mà Trung Quốc, Philíppin, Việt Nam, và các nước có tuyên bố chủ quyền khác áp dụng đối với các tranh chấp?
Ian Storey: Chủ nghĩa dân tộc được yêu thích liên quan đến chủ quyền các đảo san hô có tranh chấp đang gia tăng về cường độ. Điều này đặc biệt đúng ở Trung Quốc và Việt Nam, và ngày càng tăng lên ở Philíppin. Hà Nội và Bắc Kinh đã thúc đẩy chủ nghĩa dân tộc để hợp pháp hóa chế độ của họ, và trong bối cảnh tranh chấp Biển Đông, để gửi thông điệp cho các nước tranh chấp khác. Một ví dụ là 11 tuần liên tiếp diễn ra các cuộc biểu tình chống Trung Quốc tại Việt Nam trong năm 2011. Nhưng chủ nghĩa dân tộc cũng giới hạn lựa chọn hành động của nước tuyên bố chủ quyền vì bất cứ nhượng bộ nào về tuyên bố lãnh thổ hay ranh giới sẽ được hiểu như là một dấu hiệu của sự yếu kém và do đó kích động một phản ứng dân tộc chủ nghĩa dữ dội. Điều này có nghĩa rằng sẽ khó đạt được thỏa hiệp cần thiết để đạt được thỏa thuận, do đó làm giảm thêm nữa triển vọng có được một giải pháp cho tranh chấp Biển Đông.
NBR: Từ quan điểm của Mỹ, đâu là kịch bản tốt nhất và đâu là tồi tệ nhất cho những căng thẳng trên Biển Đông trong năm tới?
Ian Storey: Kịch bản tồi tệ nhất đối với Mỹ, và thực sự là với tất cả các bên liên quan ở Biển Đông, là một cuộc đối đầu nghiêm trọng, trong đó lực lượng quân sự được sử dụng. Nhưng thẳng thắn mà nói, tôi nghĩ rằng cơ hội xảy ra kịch bản này không cao. Kịch bản tốt nhất là Trung Quốc và ASEAN đồng ý về một COC đáng tin cậy và hiệu quả làm giảm căng thẳng, dẫn đến việc thực hiện các biện pháp xây dựng lòng tin, và do đó tạo ra một môi trường thuận lợi cho một giải pháp hòa bình. Tôi cũng không nghĩ rằng cơ hội cho kịch bản đó là rất cao.
Vì vậy, tôi nghĩ rằng những gì chúng ta sẽ thấy trong tương lai gần là việc tiếp tục duy trì nguyên trạng ở Biển Đông: căng thẳng sẽ tiếp tục lên rồi lại xuống, các bên tranh chấp sẽ phản đối động thái của nhau, và ASEAN và Trung Quốc sẽ giữ cho quá trình DOC/COC tiếp tục chỉ đế cho thấy rằng họ đang làm điều gì đó. Nguyên trạng có thể giữ trong bao lâu lại là một vấn đề khác. Tôi nghĩ rằng nó có tuổi thọ hạn chế, mặc dù hiện trạng sau đó sẽ ra sao là điều không thể biết được tại thời điểm này. Nhưng nó có thể sẽ rất hỗn độn./.
Nhận xét
Đăng nhận xét