“Phép thử” Ukraine: Một nước Mỹ yếu nhược khiến nước Nga càng quyết đoán và Trung Quốc thâm hiểm hơn?
Xuân Trường • 26/02/22 – Chưa khi nào nước Mỹ lại trở nên yếu nhược trong mắt thế giới như thời điểm hiện nay. Lời cam kết của Tổng thống Joe Biden sẽ “bảo vệ từng tấc lãnh thổ của NATO” trở nên vô nghĩa với Ukraine, một quốc gia không thuộc khối liên minh này. Cũng không phải ngẫu nhiên khi Trung Quốc điều 9 máy bay xâm nhập vùng nhận dạng phòng không của Đài Loan cùng ngày Nga khai hỏa tấn công Ukraine.
Trung Quốc đang theo dõi sát sao diễn biến tại Ukraine, cũng như lưu ý bất kỳ dấu hiệu yếu kém nào của Mỹ và các đồng minh trước các hoạt động quân sự của Nga. (Ảnh tổng hợp)
Phải chăng cuộc khủng hoảng Ukraine là “phép thử” của Tổng thống Putin gửi tới ông chủ Nhà Trắng, và là tiền đề để Trung Quốc ngày càng táo tợn hơn trong việc thôn tính Đài Loan?
Khai hỏa
Trước khi những quả tên lửa đầu tiên được khai hỏa mở màn chiến dịch quân sự ở Ukraine vào lúc 5h sáng ngày 24/2, Tổng thống Putin đã có bài phát biểu tuyên bố rằng tình thế đã buộc Nga phải đưa ra hành động quyết liệt, và khẳng định hai nước cộng hòa tự xưng Donetsk và Lugansk ở miền đông Ukraine đã kêu gọi Moskva hỗ trợ.
Chỉ tích tắc sau bài phát biểu của Putin, hàng loạt thành phố ở Ukraine trong đó có thủ đô Kiev đã rung chuyển bởi các vụ nổ lớn. Nhiều cơ sở quân sự của Ukraine, trong đó có sở chỉ huy, trận địa phòng không và sân bay được xác nhận bị tập kích bằng tên lửa dẫn đường có độ chính xác cao.
Quân nhân Ukraina cưỡi xe tăng tiến về chiến tuyến với lực lượng Nga ở vùng Lugansk, 25/02/2022. (Anatolii Stepanov / AFP, qua Getty Images)
Nhiều chuyên gia tin rằng các vụ tấn công tên lửa của quân đội Nga vào Kiev và các thành phố khác vào ngày 24/2 là làm suy giảm khả năng phòng không, và cho phép người Nga tạo ra một vành đai an ninh rộng lớn xung quanh khu vực Donbass mà nước này hiện đã tuyên bố là hai quốc gia độc lập. Mục tiêu cơ bản theo lời của Tổng thống Nga Putin là nhằm “phi quân sự hóa và phi phát xít hóa Ukraine” .
Lời cam kết rỗng tuếch
Kể từ khi lên nắm quyền, Tổng thống Joe Biden đã trải qua 2 cuộc khủng hoảng tại Afghanistan và giờ đây là chảo lửa Ukraine, mà cả 2 đều mang dấu ấn “khét lẹt”.
Tờ Slate – một trong những trang mạng dòng chính nổi tiếng nhất nước Mỹ đã giật tít: “Biden đã phạm phải sai lầm lớn như thế nào ở Ukraine?”
Liệu các vụ tấn công vừa qua của Nga vào Ukraine có phải do tuyên bố sai lầm của Tổng thống Joe Biden, đã vô tình cấp “giấy phép” cho Putin mở màn chiến dịch quân sự đặc biệt ở vùng Donbass, miền đông Ukraine?
Trở lại cuộc họp báo ngày 19/1, Joe Biden dường như ám chỉ rằng Mỹ và đồng minh có thể sẽ không phản ứng mạnh nếu Moscow tiến hành một cuộc “tấn công nhỏ” vào Ukraine.
Ông Biden nói: “Có sự khác biệt trong NATO về những gì các nước sẵn sàng làm, tùy thuộc vào điều gì xảy ra. Là một chuyện khác nếu đó là “một cuộc xâm lược nhỏ vào Ukraine. Nếu đó là “một cuộc xâm lược lớn”, thì sẽ có “chi phí nặng nề” và “tổn hại đáng kể” đối với “nước Nga và nền kinh tế Nga”.
Bản thân Tổng thư ký NATO Jens Stoltenberg đã phải lên tiếng đính chính về tuyên bố của ông Biden không phải là “bật đèn xanh” cho Moscow thực hiện hành vi “gây chiến”.
Tiếp đến, trong bài phát biểu ngày 22/2, Tổng thống Joe Biden dường như có phần “xuống nước” với Nga chỉ 1 ngày sau khi Putin tuyên bố công nhận chủ quyền của 2 hai nước cộng hòa tự xưng Donetsk và Lugansk.
Ông Biden tuyên bố: “Chúng tôi không có ý định chống lại Nga… Tuy nhiên, chúng tôi muốn gửi một thông điệp không thể nhầm lẫn rằng Mỹ cùng với các đồng minh của chúng ta sẽ bảo vệ từng tấc lãnh thổ của NATO và tuân thủ các cam kết mà chúng tôi đã thực hiện với NATO.”
“We have no intention of fighting Russia”: President Biden says U.S. forces in Europe will help Baltic allies, but “these are totally defensive moves on our part.” He says the U.S. and allies “will defend every inch of NATO territory and abide by the commitments we made to NATO” pic.twitter.com/JrTVG5176o
— CBS News (@CBSNews) February 22, 2022
Đối với người Mỹ ở bên kia bán cầu, tuyên bố của Joe Biden đã làm “yên lòng” đa số người dân, vốn không màng đến khủng hoảng Ukraine và đang quay cuồng với giá cả lạm phát tăng cao chưa từng có ở trong nước.
Tuyên bố trên của Joe Biden cũng đã mang lại sự “đảm bảo” cho các nước láng giềng là thành viên NATO như Cộng hòa Séc và Ba Lan. Nhưng với người Ukraine, họ coi đó là sự yếu nhược của nước Mỹ trước “gấu” Nga, cũng như đặt dấu chấm hết cho kỳ vọng có được sự hỗ trợ quân sự từ bên ngoài.
Ukraine phải đối diện một thực tế: Họ chính thức bị bỏ rơi.
Đối với giới quan sát, lời cam kết của Joe Biden hoàn toàn rỗng tuếch, xa rời thực tế địa chính trị đến mức khiến người Nga sửng sốt khó tin trước một “cơ hội” hiếm có: Nó chẳng khác gì “bật đèn xanh” cho Putin có thể tiến hành quân sự mà Mỹ sẽ không “động binh”.
Hẳn nhiên Ukraine không phải là thành viên của NATO, nên Mỹ và các đồng minh không có nghĩa vụ phải bảo vệ. Nhưng chính quyền Biden quên mất rằng, vào năm 1994, Ukraine đã đồng ý từ bỏ vũ khí hạt nhân để đổi lấy lời hứa đảm bảo an ninh từ Mỹ tại cuộc họp lịch sử ở thủ đô Budapest (Hungary).
Xem thêm: Ukraine đang hối tiếc vì cách đây 30 năm đã từ bỏ điều này có thể khiến Nga run sợ
Chẳng thế mà Tổng thống Ukraine Volodmyr Zelensky đã có nhiều động thái đối với chính quyền Joe Biden trong Hội nghị An ninh Munich (MSC) lần thứ 58 vào ngày 19/2 tại Munich ( Đức), khi ông gợi ý rằng Ukraine có thể cần phải có vũ khí hạt nhân bằng cách chấm dứt Bản ghi nhớ Budapest:
Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky đưa ra một tuyên bố trong Hội nghị An ninh Munich (MSC) lần thứ 58 vào ngày 19/2/2022 tại Munich, Đức. (Ảnh Getty Images)
Ông nói: “Tôi hy vọng không ai nghĩ Ukraine là vùng đệm thuận tiện và vĩnh cửu giữa phương Tây và Nga…. Tôi muốn tin rằng Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương và Điều 5 sẽ hiệu quả hơn Bản ghi nhớ Budapest.
Ukraine đã nhận được sự đảm bảo an ninh cho việc từ bỏ vị trí hạt nhân thứ ba trên thế giới. Chúng tôi không có thứ vũ khí đó…. Do đó, chúng tôi cần… Quyền yêu cầu chuyển từ chính sách xoa dịu sang bảo đảm an ninh và bảo đảm hòa bình”.
Khát vọng đòi hỏi “quyền được đảm bảo an ninh” bằng vũ khí hạt nhân của Tổng thống Zelensky có lẽ khá xa vời, nhưng phần nào đã phản ánh thực tế sự thiếu niềm tin của quốc gia nhỏ bé này trước cách xử lý khủng hoảng của chính quyền Joe Biden.
Như Thượng nghị sĩ Đảng Cộng hòa Ron Johnson (bang Wisconsin) cho biết: “Những hành động mà Tổng thống Biden thực hiện đều khiến nước Mỹ suy yếu và khuyến khích kẻ thù của chúng ta”. “Họ rất lạc quan. Họ rất hung dữ. Khi họ cảm thấy (nước Mỹ) yếu đuối, họ sẽ hành động, và đó là những gì chúng ta đang thấy ngay bây giờ”.
Sai lầm nối tiếp sai lầm
Trước khi xem xét các dẫn chứng sinh động về những gì chính quyền Joe Biden đã làm nước Mỹ suy yếu, và “vô tình” giúp kẻ thù của nước Mỹ táo tợn hơn chỉ trong thời gian ngắn kể từ khi ông lên nắm quyền, hãy nhớ lại những gì mà Tổng thống Donald Trump đã mang lại vị thế chủ động cho nước Mỹ.
Tổng thống Donald Trump đã khiến nước Mỹ được nể trọng trên trường quốc tế. Ảnh Thủ tướng Đức Angela Merkel thảo luận với Tổng thống Mỹ Donald Trump bên lề hội nghị G7 2018 (Ảnh: Jesco Denzel /Bundesregierung via Getty Images)
- Dưới thời chính quyền Donald Trump, ông đã khiến Nga lo ngại khi trao cho Ba Lan và Ukraine những thỏa thuận vũ khí hiện đại, như hệ thống tên lửa Patriot để đối phó hiệu quả với Nga trị giá tới 4,75 tỷ đô la và chấp thuận bán vũ khí hạng nặng cho Ukraine.
- Tổng thống Trump đã trừng phạt ngay cả khi người Nga chưa có bất kỳ động thái uy hiếp các nước Đông Âu trong thời kỳ ông nắm quyền, như ký sắc lệnh trừng phạt đối với bất kỳ công ty nào giúp công ty khí đốt Gazprom của Nga hoàn thành đường ống Nord Stream 2 cho phép Nga xuất khẩu khí đốt sang Đức.
- Tổng thống Trump cũng rút khỏi Hiệp định khí hậu Paris và đưa nước Mỹ trở thành nhà sản xuất dầu lớn nhất thế giới vào năm 2018. Điều này làm suy giảm “quyền” định giá dầu của Nga và tổ chức OPEC, giúp người Mỹ được hưởng lợi từ việc giá xăng dầu thấp.
- Ông Trump cũng rút khỏi thỏa thuận với Iran – một trong những đồng minh và là đối tác thương mại lớn nhất của Nga, và trừng phạt Iran bằng nhiều biện pháp cứng rắn.
- Và tháng 5/2020, Viện Nghiên cứu Năng lượng (IER) tuyên bố: “Lần đầu tiên Mỹ đã độc lập về năng lượng vào năm 2019 kể từ năm 1957“.
Hẳn nhiên việc Joe Biden lên làm ông chủ Nhà Trắng đã khiến nước Nga và kẻ thù của nước Mỹ khấp khởi mừng thầm.
Hẳn nhiên việc Joe Biden lên làm ông chủ Nhà Trắng sẽ khiến nước Nga và kẻ thù của nước Mỹ khấp khởi mừng thầm.(Ảnh: NTD Việt Nam tổng hợp)
Bởi dưới thời chính quyền Joe Biden, nước Mỹ đã quay trở lại vạch đích của một cường quốc phụ thuộc năng lượng của nước ngoài, khi tờ Daily Caller vào ngày 18/2 vừa qua giật tít: “Mỹ chuẩn bị trở thành nước nhập khẩu ròng dầu trở lại”.
Việc xử lý cuộc khủng hoảng Nga-Ukraine của Joe Biden đã gây ra nhiều lời chỉ trích, bắt đầu từ quyết định trong những ngày đầu nhiệm kỳ tổng thống, khi ông Biden đã thu hồi giấy phép đối với đường ống Keystone XL. Quyết định này không chỉ phá hủy ngành công nghiệp nhiên liệu hóa thạch của đất nước, đưa Mỹ từ nhà xuất khẩu lớn nhất trở thành nhà nhập khẩu lớn nhất, mà còn giết chết hàng chục nghìn công ăn việc làm vào thời điểm mà nước Mỹ cần vực dậy sau khi nền kinh tế bị phá hủy bởi đại dịch Covid-19.
Trong khi đó, chính quyền Joe Biden lại “tặng” cho nước Nga một món quà “vô giá”, với việc dỡ bỏ các lệnh trừng phạt đối với dự án “huyết mạch” Nord Stream 2 của nước này, trao cho Putin một cơ hội “vàng ròng”.
Quyết định này đã đẩy các đồng minh châu Âu và các đối tác của Mỹ phụ thuộc nhiều hơn vào nguồn năng lượng của Nga, và giúp nền kinh tế Nga – vốn phụ thuộc vào xuất khẩu dầu – bỗng dưng trở nên sung túc nhờ giá dầu tăng.
Chính quyền Joe Biden cũng đưa nước Mỹ trở lại Hiệp định khí hậu Paris, khiến nước Mỹ ngày càng suy yếu và đẩy giá dầu càng tăng cao.
Thậm chí Joe Biden và các đồng minh phương Tây đã liên tiếp “cảnh báo” Putin trong nhiều tuần về các biện pháp trừng phạt kinh tế khắc nghiệt nếu Nga xâm lược Ukraine. Điều này càng giúp Nga xích lại gần hơn với “đối tác” Trung Quốc” – vốn là quốc gia chưa bao giờ màng đến các lệnh trừng phạt của Mỹ đối với Iran, Triều Tiên hay bất kỳ quốc gia đối địch nào với Mỹ.
Hệ quả nhãn tiền là, trong khi nhiều quốc gia đang tìm cách áp đặt các biện pháp trừng phạt bổ sung đối với Nga, thì chính quyền Bắc Kinh lại làm ngược lại, dỡ bỏ các hạn chế thương mại với Nga.
Liệu các đòn trừng phạt còn khởi tác dụng? Và vì sao Nga và Trung Quốc chỉ hung hăng dưới thời chính quyền Barack Obama và Joe Biden?
Nhận xét
Đăng nhận xét