Nữ Quân Nhân QLVNCH

Nữ Quân Nhân QLVNCH

Nhân ngày Quốn hận 30-4-2020, Ban biên tập xin kính cẩn nghiêng mình tri ân sự hi sinh vô vàn của tất cả Quí Chị Nữ Quân Nhân Quân Lực VNCH

- những người Con, người Em, người Chị, người Vợ, người Mẹ với đôi vai thon nhưng luôn âm thầm sắt son gánh trọn nợ Nhà cùng nợ Nước,
- những Nữ nhi oai hùng nước Việt thân đào tơ liễu nhưng ý chí như Sắt như Thép sẵn sàng vung tay nghiền nát bọn cộng phỉ vô thần,
- những cánh Thiên Nga oắt thước nhưng luôn bao phen làm bạt vía quân thù, tuy máu xương nay đã hòa cùng đất Mẹ nhưng hồn thiêng vẫn luôn linh thiêng hộ trì quê hương đất tổ,
- những Chiến sĩ Nữ Quân Nhân Quân Lực VNCH, các Chị luôn là những tấm gương sáng chói của Trưng Nữ Vương lừng lẫy, là nguồn cảm hứng vô tận, những ánh đuốt soi đường cho các thế hệ Anh thư Liệt nữ tiếp nối .
KBCHN – 26/5/2011 The women in uni­form of ARVN are per­haps the ones who have been most for­got­ten and not men­tio­ned at all during the Vietnam war. Today, many of the next Vietnamese gene­ra­tion didn’t know their exis­tence in ARVN, their contri­bu­tion and sacri­fice they made in the defense of South Vietnam. [...] The Women’s Armed Force Corps (WAFC) mem­bers duti­fully served in ARVN as the sup­por­ting roles, and in many cases even par­ti­ci­pa­ting in the combat action. There were the wives of many ARVN sol­diers who picked up rifles and fought side by side with their hus­bands in the tren­ches, when their camp (sort of Vietnam ALAMO) was under heavy attack, on the brink of being over­ran by the Viet Congs (It was a common prac­tice for sol­diers’ depen­dents living in the mili­tary remote out­posts, espe­cially at the Montagnard Ranger camps). For those women, they were known in ARVN as “the sol­diers without serial num­bers.” They fought, without salary, never expect any medals or rewards, and of course they didn’t have their own serial num­bers like the other cons­cripts. All for their fami­lies’ safety well-being and sur­vi­ving. Thành lập vào năm 1965 (Trước đó có tên là Nữ Phụ Tá Xã Hội- LTS), văn phòng trưởng đoàn Nữ Quân Nhân và Trung Tâm Huấn Luyện đặt tại đường Nguyễn Văn Thoại, trước gọi là vùng rừng cao su, trước đài Phát Tuyến ngay trên ranh giới quận 10 và quận 11 Saigon, nay là đường Lý Thường Kiệt. Ranh giới thiên nhiên nguyên là một hồ dài và hẹp từ trước ra cuối Trung Tâm sau này được Công Binh Hoa Kỳ cho lấp bằng tráng nhựa làm mặt sân thêm rộng rãi. Trưởng đoàn Nữ Quân Nhân kiêm Chỉ Huy trưởng TTHL/NQN đầu tiên là Thiếu Tá Trần Cẩm Hương cho đến ngày 1 tháng 4 năm 1975 nghỉ hưu đáo hạn tuổi, cấp bậc chị mang là Ðại Tá. Trưởng Đoàn thứ hai và cuối cùng là chị Lưu Thị Huỳnh Mai, nguyên Thiếu Tá, Phân Đoàn Trưởng Nữ Quân Nhân Cơ Quan Trung Ương thuộc Bộ TTM được thuyên chuyển về văn phòng Trưởng Ðoàn NQN thăng cấp Trung Tá từ ngày 1 tháng 1 năm 1975 thay thế Ðại Tá Trần Cẩm Hương từ ngày 1 tháng 4 năm 1975. Trung Tâm Huấn Luyện Nữ Quân Nhân đảm nhận việc tuyển mộ phụ nữ từ 18 tuổi trở lên, tình nguyện gia nhập quân đội và huấn luyện căn bản quân sự như về tổ chức quân đội, cơ bản thao diễn v.v… Nhiệm vụ Nữ Quân Nhân là không tác chiến nên chỉ được học ít giờ làm quen với vũ khí do Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung đảm nhận. Sau phần căn bản quân sự, tùy nhu cầu quân số do bộ TTM ấn định, khóa sinh tốt nghiệp sẽ được thụ huấn chuyên môn tại các trường Tổng Quản Trị, trường Quân Y, trường Hành Chánh Tài Chánh, trường Quân Nhu, trường Xã Hội v.v… Ðến năm 1966, việc tuyển mộ Nữ Quân Nhân do các Trung Tâm Tuyển Mộ phụ trách và chuyển nữ tân binh đến Trung Tâm Huấn Luyện Nữ Quân Nhân để trang bị và thụ huấn căn bản quân sự. Nữ Quân Nhân được tuyển theo bằng cấp. Trung học đệ nhất cấp và Tú Tài I được huấn luyện trở thành Hạ sĩ quan trong quân đội(Trung Sĩ) cho đến năm sau mới có khóa sĩ quan đầu tiên từ những Hạ sĩ quan có bằng Tú tài hoặc tuyển mộ mới. Cũng tùy theo nhu cầu quân số do Bộ TTM ấn định, việc tuyển mộ và huấn luyện NQN được tiếp tục phát triển hàng năm. Ðến năm 1968, lệnh tăng quân số cho phép tuyển mộ thêm NQN hàng binh sĩ, chỉ cần biết đọc biết viết và đầy đủ sức khỏe là được nhận tại các Trung tâm tuyển mộ và sau đó được chuyển đến trường Nữ Quân Nhân. Thời gian huấn luyện căn bản quân sự cũng được rút ngắn còn trong vòng một tháng thay vì sáu tuần lễ như trước. Số binh sĩ này được sung vào ngành Kiểm Soát An Ninh và Tài Xế (Ưu tiên nhận các quả phụ tử sĩ). Năm 1967, Văn Phòng Trưởng Ðoàn NQN được chuyển về Bộ TTM, trực thuộc Văn Phòng Tham Mưu Phó Nhân Viên, còn TTHL/NQN trở thành trường Nữ Quân Nhân trực thuộc Tổng Cục Quân Huấn như các trường và các Trung tâm Huấn Luyện khác của QLVNCH. Trường NQN huấn luyện trong 10 năm các khóa Căn Bản Quân Sự cho binh sĩ, hạ sĩ quan (không nhớ được mấy khóa tất ca)Ư. Riêng về Sĩ Quan NQN thì được 7 khóa tốt nghiệp và đến nửa chừng khóa 8 thì biến cố 30.4.75 xẩy ra. Ngoài ra trường NQN cũng huấn luyện thêm các khóa sau. Một khóa cho HSQ nguyên là Nữ Phụ Tá trước vốn chưa qua khóa căn bản quân sự nào từ ngày nhập ngũ. Bốn khóa Căn Bản Sĩ Quan cho Nữ Ðiều Dưỡng Không Quân do Bộ Tư Lệnh Không Quân gửi đến. Hai khóa Căn Bản Sĩ Quan cho Nữ Sĩ Quan cảnh Sát do Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát yêu cầu. Về quân phục của Nữ Quân Nhân thì từ năm 1969 về sau quân phục của NQN là mầu xanh da trời, lễ phục mầu trắng đồng kiểu với quân phục mầu xanh làm việc nhưng tay dài 3/4. Quân phục nỉ mầu xanh thẫm cho các vùng lạnh. Lễ phục khi xuất ngoại vẫn là Worsted Kaki. Tất cả NQN đều được phát một áo len đen dài tay để dùng khi trời trở lạnh, mặc ngoài quân phục xanh làm việc. Mũ NQN không còn mẫu Calo mà có kiểu như Nữ Chiêu Ðãi Viên hàng không, màu xanh thẫm. Nữ Quân Nhân mang giầy đen có gót cao 5 phân khi mặc quân phục làm việc hay lễ phục. Nữ Quân Nhân để tóc ngắn, không dài quá cổ áo. Thời gian thụ huấn tại trường NQN, khóa sinh phải mặc quân phục tác chiến, mũ vải, giầy vải đen có cổ. Cuối tuần xuất trại chị em được mặc thường phục. Mỗi khóa sinh ngoài hai bộ quân phục tác chiến mặc khi thụ huấn, được may đo hai bộ quân phục xanh làm việc. Tại trường NQN, chị em được trang bị mũ, ví cầm tay mầu đen, huy hiệu đoàn NQN và một đôi giầy đen gót cao 5 phân trước khi mãn khóa. Ðoàn Nữ Quân Nhân cũng được huấn luyện ở hải ngoại. Một số sĩ quan đã được đưa sang Hoa Kỳ để được thụ huấn trong các quân trường như Khóa Sĩ Quan Căn Bản Nữ Quân Nhân Lục Quân Hoa Kỳ tại Fort Mc Clellen, Alabama, Khóa Sĩ Quan cao cấp Nữ Quân Nhân Lục Quân Hoa Kỳ cũng tại Fort Mc Clellen, Alabama, khóa Dân Sự Vụ tại Fort Gordon, Georgia, khóa Sĩ Quan Chiến Tranh Chính Trị tại Fort Bragg, North Carolina, các khóa về nhân viên, tuyển mộ, tổng quản trị tại Fort Benjamin Harrison, Indiana. Riêng bốn khóa Nữ Ðiều dưỡng Không Quân sau khi tốt nghiệp Căn Bản Sĩ Quan tại trường NQN thì được Bộ Tư Lệnh Không Quân gửi đi thụ huấn nghiệp vụ tại Texas, Hoa Kỳ. Cuối cùng thì trong đoàn đã có 5 Hạ Sĩ Quan nguyên làm thông dịch viên quân đội được đưa sang trường Nữ Quân Nhân Lục Quân Hoa Kỳ tại Fort Mc Clellen, Alabama để thụ huấn khóa sĩ quan căn bản. Khi về nước được thăng cấp Chuẩn Úy trước khi khóa 1 Sĩ Quan NQN mãn khóa. Về tổ chức của Ðoàn NQN gồm có :
  • Một văn Phòng Trưởng Ðoàn trực thuộc Văn Phòng Tham Mưu Phó Nhân Viên của bộ TTM.
  • Trường Nữ Quân Nhân trực thuộc Tổng Cục Quân huấn bộ TTM.
  • Các văn phòng Phân Ðoàn trưởng NQN Quân Ðoàn/ Vùng Chiến thuật trực thuộc các Bộ Tư Lệnh QÐ/VCT.
  • Các Văn Phòng Phân Ðoàn Trưởng NQN Không Quân Hải quân trực thuộc các Bộ Tư lệnh Quân Chủng.
  • Các Văn Phòng Chi Ðoàn Trưởng NQN trực thuộc Bộ Tư Lệnh Tiểu Khu và Quân Chủng.
  • Nữ Quân Nhân phục vụ tại các đơn vị Quân Binh Chủng thuộc quân số các đơn vị ấy và chịu sự giám sát về quân phong quân kỷ của Chi Ðoàn Trưởng, Phân Ðoàn trưởng liên hệ.
Trước ngày 30.4.1975, quân số NQN trên lý thuyết là 10,000 người và đã thực hiện được trên 6,000. Riêng về Sĩ Quan thì có khoảng 600 kể cả cấp Chuẩn Úy. Trên đây là những gì tôi nhớ và viết lại trong khoảng thời gian từ 1965 cho đến 30.4.1975 tôi phục vụ liên tục tại trường NQN. Tất nhiên là còn rất nhiều thiếu sót nên mong được sự bổ túc của chị em NQN ở hải ngoại. Xin liên lạc với chúng tôi ở số điện thoại (405) 691-0235. Hồ Thị Vẻ PHỤ NỮ TRONG QUÂN ÐỘI Với tinh thần trách nhiệm cao và óc sáng tạo nên bất cứ ở ngành nào, quân binh chủng nào, người NQN/ QLVNCH cũng đem hết khả năng để phục vụ nên đã có nhiều kinh nghiệm và đạt được nhiều thành quả tốt đẹp. Chúng tôi đã vươn lên sau 10 năm, 20 năm để có thể ngang bằng với các cấp chỉ huy nam quân nhân mà nhận lãnh nhiều trọng trách ở hậu phương. Nữ Quân Nhân chúng tôi đã có những chiến sĩ nhẩy dù gan dạ, những chiến sĩ trong các ngành truyền tin, tham mưu hay trong những nghề chuyên môn như y tá, nha tá, dược tá, chuyên viên thí nghiệm, tiếp huyết và các nữ điều dưỡng trong quân đội cũng như những người mang đến tình thương giáo dục cho các cô nhi của Tử Sĩ. Chúng tôi chỉ thua nam giới trong lãnh vực tác chiến vì qui chế của chúng tôi không ấn định. Cuộc đời binh nghiệp của chúng tôi đang bình yên, đang cùng nam giới xây dựng một quân đội hùng mạnh, hậu phương và tiền tuyến cùng hoạt động nhịp nhàng thì có ai ngờ một ngày cuối tháng Tư đen đã làm sụp đổ tất cả những gì đã gầy dựng, làm dở dang mọi chương trình và kế hoạch đang trên đà thăng tiến của QLVNCH nói riêng và cả một chính thể VNCH nói chung. Sau khi CS cưỡng chiếm miền nam, ngoài một số ít các chị may mắn thoát được, di tản sang Hoa Kỳ, còn phần đông chị em bị kẹt lại đã bị Cộng Sản lùa hết vào các “Trại Tập Trung Cải Tạo”. Kể sao cho hết những nỗi ê chề, đau khổ về tinh thần cũng như vật chất trong lao tù của CS. Chị em chúng tôi chịu đựng, người 2,3 năm kẻ 4,5 năm, chỉ tội một mình chị Cẩm Hương, người chị cả trong gia đình NQN, tuy tháng 4/75 đã nghỉ hưu mà vẫn bị CS cầm tù đến 10 năm trời. Khi được tha về một năm sau thì chị mất sau một cơn bạo bệnh. Chị em chúng tôi lần lượt được thả về, đau đớn và chua xót làm sao khi nhà mình ở từ nhỏ đến giờ lại chỉ được ở với tư cách tạm trú và sau đó đều bị buộc phải đi vùng kinh tế mới của CS. Tuy nhiên nhiều chị em vẫn lì bám lấy ngôi nhà cũ, mưu sinh nơi các chợ trời vì tên bị xóa trong sổ hộ khẩu. Thỉnh thoảng lại thấy một chị vắng mặt, vài tuần sau lại nhận được tin từ Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật tân, Thái Lan của các chị ấy báo tin lành… Tuy nhiên cũng có nhiều chị em không được may mắn như vậy. Có chị ra đi năm lần bẩy lượt lại cũng về chốn cũ, có khi im hơi lặng tiếng luôn trong lòng Ðại dương, có khi bị bắt lại mắc vòng lao lý dăm ba năm nữa. Nhưng chúng tôi vẫn không hề nản, cứ tiếp tục tìm cách ra đi cho đến ngày được tin chính phủ Hoa Kỳ can thiệp sẽ được ra đi trong các chương trình H.O. Nay thì gần ba mươi năm trôi qua, chị em chúng tôi những kẻ còn lại hầu hết đã sang được bến bờ tự do nhưng vẫn không thể nào quên được một chặng đường lịch sử hãi hùng… Nguồn : http://kbchn.com/2011/05/26/n%E1%BB…

Nữ Quân Nhân Quân Lực VNCH : Hoa Lạc Giữa Rừng Gươm

OVV – 18/06/2009 Quân lực Việt Nam Cộng Hòa với cao điểm một triệu một trăm ngàn quân, ngành Nữ Quân Nhân cũng đã lớn mạnh chung của quân đội, với một quân số dù khiêm tốn so với nam quân nhân, theo ước đoán của người viết cũng xấp xỉ một sư đoàn, trên dưới mười ngàn người. Đây quả thật, người nữ quân nhân trong các đơn vị là những hoa lạc giữa rừng gươm. Từ vùng hỏa tuyến, miền cao nguyên, duyên hải đến vùng đồng bằng miệt cuối mũi Cà Mau. Đâu đâu cũng có sự hiện diện của các nữ chiến binh trong bộ quân phục tác chiến ở tiền phương hay bộ đồng phục màu xanh tại các đơn vị tham mưu, cơ sở trong mọi quân binh chủng và ngành chuyên môn của QLVNCH. Trong buổi ban đầu, người Nữ Quân Nhân QLVNCH được gọi là Nữ Trợ Tá hay Nữ Phụ Tá khi Quân Đội Quốc Gia Việt Nam còn nằm trong khuôn khổ của Liên Hiệp Pháp. Người Nữ Phụ Tá của quân đội Pháp cũng hiện diện trong các đoàn quân viễn chinh của quân đội Pháp tại Đông Dương từ năm 1954 trở về trước. Được trao trả chủ quyền lớn dần, chính quyền quốc gia lớn mạnh, quân đội quốc gia trưởng thành cũng là lúc ngành Nữ Phụ Tá chính thức được thành lập từ năm 1952 mà nhiều người gọi là P.A.F, chữ viết tắt của tiếng Pháp (Personnel Auxiliaire Féminin).
Mới đầu, Nữ Quân Nhân thường phục vụ trong ngành quân y và xã hội, và sau nầy quân đội hùng mạnh về mọi mặt, người Nữ Quân Nhân cũng có mặt hầu hết trong các ngành, quân binh chủng của QLVNCH. Trước 30/4/1975, công việc chính của Đoàn Nữ Quân Nhân là phục vụ tại các đơn vị tham mưu không tác chiến như : thư ký, đả tự, chuyên viên. Trong các ngành chuyên môn như quân y, xã hội, truyền tin, thông dịch… người Nữ Quân Nhân đóng một vai trò quan trọng trong guồng máy chung của quân đội. Muốn trở thành Nữ Quân Nhân QLVNCH, những thiếu nữ đến tuổi trưởng thành có trình độ học vấn tùy theo cấp bậc như binh sĩ, hạ sĩ quan và sĩ quan, tình nguyện đầu quân. Sau khi được khám nghiệm có đầy đủ sức khỏe, người thiếu nữ ấy được đưa về huấn luyện căn bản quân sự như nam giới.
Nhưng không chú trọng về tác chiến, mà chú trọng về huấn nhục, rèn luyện thân thể, quân phong quân kỷ để trở thành một Nữ Quân Nhân khỏe mạnh phục vụ đắc lực tại các đơn vị. Trường Nữ Quân Nhân, trên đường Nguyễn Văn Thoại, giữa Trường Đua Phú Thọ và Chợ Tân Bình. Trường Nữ Quân Nhân do Trung Tá Hồ Thị Vẽ (hiện nay ở Oklahoma) làm chỉ huy trưởng từ khi mới thành lập giữa thập niên 60 đến ngày quân đội tan tác. Một Nữ Quân Nhân xuất thân từ trường Nữ Quân Nhân chưa có đủ chuyên môn để phục vụ các đơn vị, nên thường phải trải qua một thời gian huấn luyện nữa, như ngành quân y, học tiếp ở trường Quân Y để trở thành một y tá lành nghề. Trong các trường chuyên môn, người Nữ Quân Nhân phải học chung với các nam quân nhân. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chỉ có một quân trường chuyên đào tạo những Nữ Quân Nhân xã hội từ hạ sĩ quan đến sĩ quan. Đó là trường Xã Hội Quân Đội thuộc Cục Xã Hội (Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị), tọa lạc trong Trại Lê Văn Duyệt, nơi đặt bản doanh Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô nằm trên đường Lê Văn Duyệt. Ngoài ra, trường Xã Hội Quân Đội còn đào tạo huấn luyện những cô giáo nhà trẻ mẫu giáo để phục vụ tại trung tâm, trường học ở khu gia binh do quân đội xây cất.
Vị chỉ huy trưởng trường Xã Hội Quân Đội những năm sau cùng là cựu Thiếu Tá Trần Thị Bích Nga, hiện định cư tại Sacramento, California. Ngành Nữ Quân Nhân được gọi là Đoàn Nữ Quân Nhân QLVNCH trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu. Trưởng Đoàn Nữ Quân Nhân đầu tiên là nữ Đại Tá Trần Cẩm Hương, ái nữ của kỹ sư Trần Văn Mẹo – Tổng Trưởng Công Chánh thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Mỗi quân khu và quân binh chủng có phân đoàn Nữ Quân Nhân, Phân Đoàn Trưởng thường có cấp bậc là Thiếu Tá hoặc Đại úy thâm niên. Trong QLVNCH mới có một nữ Đại Tá, đó là Đại Tá Trần Cẩm Hương, bà xuất thân từ ngành Nữ Trợ Tá Xã Hội, tốt nghiệp Cán Sự Xã Hội trường Thévénet.
Ngành xã hội quân đội do phu nhân Trung Tướng Nguyễn Văn Hinh – Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Quốc Gia Việt Nam lúc bấy giờ (khoảng năm 1952) – đề nghị thành lập. Nữ Đại Tá Trần Cẩm Hương giải ngũ vì đáo hạn tuổi vào đầu năm 1975 và do lệnh Bộ Tổng Tham Mưu bổ nhiệm, người kế vị Trưởng Đoàn Nữ Quân Nhân là Trung Tá Lưu Thị Huỳnh Mai (hiện nay ở Orange County). Về cấp bậc Trung Tá, thâm niên quân vụ và cấp bậc có : Trung Tá Nguyễn Thị Hằng (đang ở Việt Nam), bà Hằng đang bị bệnh mất trí nhớ, từ Hòa Lan bà ở với con, nay bà về Việt Nam chờ ngày ra đi để trọn tình với quê hương. Trung Tá Hồ Thị Vẽ (Oklahoma), kế đến là Trung tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn (Nam Cali), Trung Tá Lưu Thị Huỳnh Mai (Orange County). Thiếu Tá có khoảng trên dưới mười vị. Trần Văn Nguồn : http://ong­vove.word­press.com/2009/0…

Câu chuyện của Trung tá Hạnh Nhơn, cựu nữ quân nhân VNCH

Trung tá Hạnh Nhơn khi còn tại ngũ.
RFA – 2005-04-25 Trà Mi, phóng viên đài RFA Cuộc chiến Việt Nam đi qua đã để lại những mất mát, đau thương cho hàng triệu phụ nữ Việt. Sự hy sinh của phụ nữ trong thời chiến không chỉ là những người chồng, những đứa con cho chiến tranh, mà nhiều người đã hy sinh tuổi thanh xuân và có khi là cả cuộc đời của mình nữa. Trong chương trình hôm nay, Trà Mi xin mạn phép giới thiệu đến quý vị một cựu nữ quân nhân của quân lực Việt Nam Cộng Hoà, Trung Tá Trưởng Đoàn Nữ Quân Nhân Không Quân : Nguyễn Thị Hạnh Nhơn, người đã tham gia và phục vụ quân đội trong suốt 25 năm. Trung Tá Trưởng Đoàn Nữ Quân Nhân Không Quân Cô Hạnh Nhơn bước chân vào binh nghiệp năm 1950, khi còn là một cô gái 23 tuổi, đầy sức sống và nhiệt huyết. Trong 7 năm đầu, cô làm việc cho Sở Hành Chánh Tài Chánh, đảm nhiệm việc kế toán lương hướng. Sau đó, cô chuyển về công tác tại Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương, làm sĩ quan tiếp liệu, lo về y cụ, doanh trại cho quân y trong suốt 7 năm. Đến năm 1964, người con gái dịu dàng của miền Trung vào Sài Gòn, để giữ chức vụ Trưởng phòng Hành Chánh Trung Tâm Huấn Luyện Nữ Quân Nhân. Sau một năm, cô về Văn Phòng Đoàn Nữ Quân Nhân tại Bộ Tổng Tham Mưu làm trưởng phòng nghiên cứu trong 4 năm, rồi được điều về Bộ Tư Lệnh Không Quân, với vị trí Trung Tá Trưởng Đoàn Nữ Quân Nhân Không Quân. Cô phụ trách công tác quản lý nữ quân nhân không quân của 4 vùng chiến thuật, coi về kỷ luật, tác phong, tuyển mộ, huấn luyện, thanh tra cho đến ngày miền Nam sụp đổ. Và cuộc đời ngừơi nữ quân nhân tận tuỵ cũng sang trang từ đây. Mời quý vị tham gia Trang Phụ Nữ. Xin email về Vietnamese@www.rfa.org Lối rẽ cuộc đời đầy nước mắt Với bề dày hoạt động và những chức vụ quan trọng trong quân lực Việt Nam Cộng Hoà, ngày quân đội miền Bắc phất cờ reo mừng chiến thắng cũng là lúc Trung Tá Hạnh Nhơn cùng những chiến hữu của cô bị bắt vào các trại cải tạo tập trung, kết thúc quãng đời binh nghiệp, dở dang những lý tưởng, những hoài bão của riêng mình, và bỏ lại sau lưng một gia đình cùng đàn con thơ dại. Bốn năm trong tù cải tạo đối với người nữ quân nhân bình dị, dễ mến này, là một thời gian đằng đẵng, một lối rẽ cuộc đời đầy nước mắt. Cô đã được chuyển qua rất nhiều trại giam và đã nếm trải bao nhiêu gian khổ, nhọc nhằn của 1 nữ tù nhân chính trị. Sau ngày ra tù, cuộc đời cô tiếp nối bằng những chuỗi ngày khó khăn, vất vả với hai bàn tay trắng trong cái nhìn khắt khe của 1 xã hội mới đối với những lớp người được coi là chế độ cũ như cô. Làm việc thiện nguyện Cho đến thập niên 90, cô Hạnh Nhơn được một người con trai sang Mỹ trước 75 bão lãnh. Là một người từng nếm trải và thấu hiểu những kinh nghiệm đau thương của chiến tranh, nên ngay khi đặt chân tới Mỹ, cô đã tham gia đóng góp vào các hoạt động giúp đỡ anh em cựu tù nhân chính trị trong bước đầu định cư trên xứ ngừơi. 4 năm đầu ở Mỹ, cô là Phó chủ tịch Hội tương trợ Cựu tù nhân Chính trị, tổ chức bảo trợ, giúp đỡ những cựu chiến binh không có thân nhân tại Mỹ sang đây định cư. Hơn 10 năm nay, cô đảm nhiệm vai trò Tổng thư ký của Hội Cứu trợ Thương phế binh và Quả phụ tử sĩ. Giờ đây, người cựu nữ quân nhân ngày nào tuy đã gần tuổi 80, nhưng ngày ngày vẫn âm thầm, cần mẫn với công việc quyên góp thiện nguyện, gửi về nước giúp đỡ thương binh, những đồng đội trong quân lực Việt Nam Cộng Hoà cùng gia đình của họ. Trò chuyện với cô Hạnh Nhơn Bây giờ, mời quý vị cùng Trà Mi gặp gỡ nữ cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hoà, Trung Tá Hạnh Nhơn. Trà Mi : Kính chào cô Hạnh Nhơn, nghe qua cô có tới 25 năm phục vụ quân đội là Trà Mi đã hết sức ngạc nhiên rồi, nhưng có một điều mà Trà Mi rất thắc mắc không biết vì sao cô quyết định gia nhập quân ngũ từ hồi còn là một cô gái rất trẻ ở tuổi đôi mươi ? Xin theo dõi toàn bộ cuộc phỏng vấn trong phần âm thanh bên trên. [xin chú ý : cuộc phỏng vấn này không còn trên trang web của RFA] Trang Phụ nữ xin chia tay với quý vị tại đây. Những chuyên đề về nữ giới đã được thực hiện trong thời gian qua được lưu giữ tại trang web của Đài ACTD ở địa chỉ www.rfa.org, để quý vị có thể nghe và xem lại. Hẹn gặp lại quý vị trong một chuyên đề mới trên làn sóng này, vào tuần sau. Trà Mi kính chào. © 2006 Radio Free Asia Nguồn : http://www.rfa.org/viet­na­mese/in_de…

Nữ quân nhân Việt Nam Cộng Hòa

Đoàn Nữ Quân Nhân được thành hình là một sức mạnh lôi cuốn phái nử đứng lên đóng góp cho công cuộc đấu tranh chống cộng sản xâm lăng. Chính vì lòng yêu nước đã hối thúc quý chị đang tuổi thanh xuân với ý chí quật cường đã quyết tâm xa học đường để bước vào quân ngũ cùng nam giới bảo vệ quê hương. Khắp miền đất nước VNCH, từ sông Bến Hải đến vùng đồng bằng Cửu Long tận mũi Cà Mau. Đâu đâu cũng có mặt nữ quân nhân với bộ quân phục tác chiến ở tiền phương hay bộ quân phục màu xanh tại các đơn vị tham mưu, cơ sở trong mọi quân binh chủng và ngành chuyên môn của QLVNCH.
Chúng tôi xin cảm ơn sự quyết định của quý chị đã chấp nhận là một thành phần của QLVNCH. Nói về sự hy sinh và sức chịu đựng của quý chị thì không có lời nào có thể nói hết được. Ngày trước, quý chị vừa làm bổn phận và trách nhiệm trong quân đội lại còn phải lo chăm sóc cho gia đình, có chị còn phải hồi hộp ngày đêm, ôm con lo lắng cho bước đi của chồng trong vùng nguy hiểm, nghe tiếng đạn pháo nổ hay hỏa châu rơi mà suốt đêm không ngủ.
Rồi ngày tang thương của đất nước xẩy đến, là ngày đổ vỡ và chia lìa của dân tộc, tất cả quân cán chính, cảnh sát và luôn cả quý chị cũng bị lùa vào các trại tù dã man của việt cộng. Những người còn lại trong gia đình bị tống đi vào rừng sâu nước độc, phải tự túc mưu sinh, thực chất là để cướp nhà, cướp đất, cướp của cải… Trong ngục tù cộng sản, nhiều đêm quý chị cũng khó tránh được thao thức, trằn trọc, với những tiếng nấc nghẹn ngào, những tiếng thở dài não ruột trong im lặng buồn tênh với sự sống bị bóp nghẹt đến tận cùng của khổ đau. Bờ vai đã ướt lạnh mà sương gió cứ bám theo, chân đã mỏi mà đường về thì vẫn mịt mù.
Những giọt lệ rơi xuống không vì thân phận của một ai mà là những giọt lệ dành cho Miền Nam Việt Nam đau thương tang tóc. Bọn cộng sản đã vắt kiệt sức lực các chị, đày đọa, sỉ nhục, đem tuổi trẻ và tài hoa của các chị chôn vùi dưới gốc cây, bụi cỏ. Chính sách bỏ đói mà phải lao động cực khổ là phương cách giết người thâm độc nhứt của bọn cộng sản. Dù bị hành hạ, đói lạnh quý chị vẫn bước qua ngưởng cửa sống và chết để chứng minh được phẩm giá của con người. Quý chị đã gánh trọn nỗi khổ người dân mất tự do: nỗi đau của người vợ xa chồng, người mẹ xa con, vừa nén đau thương, vừa đối diện với bọn cộng sản tàn ác.
Những điều đó không làm quý chị ngã lòng mà càng thôi thúc quý chị phấn đấu, trưởng thành trong kinh nghiệm để vượt qua mọi khổ nạn. Đó là những Nữ Quân Nhân với nghị lực phi thường và sức sống vô cùng mạnh mẽ .
Với lá cờ Vàng Ba Sọc Đỏ tung bay phất phới trên khắp phố phường, với tiếng hát Quốc Ca vang rền thôn xóm, đây là tiếng gọi công dân tiến lên cho công cuộc bảo vệ đất nước và nung đúc hào khí Diên Hồng năm xưa? Ai mà chẳng mang trong mình một thứ tình đất nước thiêng liêng sâu nặng. Vì tương lai tươi sáng của đất nước và tinh thần dân tộc đã dẫn dắt quý chị cùng gặp nhau, vì một mục tiêu duy nhất là bảo vệ chủ quyền của quốc gia.
>
Đoàn Nữ Quân Nhân là nơi mà quý chị đã lựa chọn, đã nổ lực phấn đấu, đã không bỏ cuộc để cùng bước lên con đường hướng tới mục tiêu chung của dân tộc. Quý chị đã không ngại gian nan để góp bàn tay vào công cuộc bảo vệ miền Nam Tự Do. Mảnh đất này đã từng thắm đỏ máu của những anh thư nước Việt khi tuổi đời đang còn tràn đầy nhựa sống. Những cô gái bình thường của ngày xưa đã trở thành những Anh Thư của ngày nay quyết không đứng nhìn đất nước bị xâm lăng, quân thù giết hại đồng bào nên đã cùng nhau đứng lên khi cuộc chiến bắt đầu. Sự dấn thân của quý chị không vì mục đích, quyền lợi cá nhân mà là một sự đóng góp cần thiết cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Và từ thời khắc đó, Đoàn Nữ Quân Nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa kể từ nay đã lớn mạnh, được người Việt Nam nhắc đến như một biểu tượng của ý chí quyết tâm và bàn tay của niềm hy vọng. Người nữ quân nhân đã hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt đẹp, yểm trợ hữu hiệu cho hậu phương, luôn quyết tâm xây dựng cái đúng, cái hay, đồng thời cũng để loại bỏ cái sai, cái xấu. Quý chị đã để lại những câu chuyện đặc biệt về sức chịu đựng và lòng nhân từ trong chiến tranh. Quý chị thiết tha với đất nước và dân tộc, là những bàn tay êm ấm để xoa dịu phần nào đau khổ của người lính chiến để họ an lòng bước ra tuyến đầu lửa đạn diệt địch bảo vệ Tổ Quốc thân yêu. Mặc dầu nữ quân nhân không phải đương đầu trực tiếp với địch ngoài chiến trường, nhưng phải sẵn sàng đối mặt với những khó khăn, gian khổ, kể cả sự nguy hiểm trong nhiệm vụ, nhiều chị cũng đã đổ máu trong những chuyến công tác như bị phục kích, giựt mìn, pháo kích ….
>
Trung tá Hạnh Nhơn
khi còn tại ngũ.
Và người nữ quân nhân cũng sẵn sàng nằm gói thân thiên thu trong chiếc poncho. Biết bao nhiêu Việt nữ đã âm thầm hy sinh đóng góp cho công cuộc diệt nội thù và chống ngoại xâm để bảo vệ đất nước. Các chị đã làm những gì mà một Con Người có thể làm để không hổ thẹn với lịch sử của một dân tộc bị chiến tranh triền miên này. Chúng ta có nhiều người chị như vậy lắm cho mãi đến tận bây giờ và ngàn đời sau, dân tộc Việt Nam sẽ không bao giờ quên tên quý chị. Suốt cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam, tình cảm của quý chị là ký ức luôn tràn đầy nỗi tiếc thương cho những chiến sĩ đã để lại cuộc đời trên chiến địa, những thương binh đã đem máu thắm vào lòng đất Việt.
Quý chị đã chịu đựng quá nhiều, chỉ vì quyết tâm đóng góp cho một lý tưởng cao đẹp của một dân tộc, quý chị luôn ắp ủ một hoài bảo tự do, dân chủ của đất nước trong tim. Hành động của nữ quân nhân là tấm gương sáng cho các thế hệ trẻ hiểu rằng quý chị luôn tiếp nối con đường của các thế hệ trước đã đi để đấp xây sự thành công tốt đẹp cho đất nước. Quý chị chính là những Anh Thư của QLVNCH, là nguyên khí của đất nước, thể hiện tinh hoa của dân tộc.
Trong nước cũng như ở hải ngoại, người nữ quân nhân vẫn sống với lòng cảm phục của người đời, không hề bị quên lãng theo tháng năm. Hình ảnh kiêu hùng bất khuất của quý chị vẫn tồn tại trong lòng chúng tôi và đồng bào Miền Nam Việt Nam.
Hôm nay, quý chị nên hãnh diện và tự hào vì quý chị đã đi qua quãng đường đầy chông gai trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước, với những bước chân can đảm của một con người theo đúng nghĩa cao đẹp nhứt, rất xứng đáng là hiện thân của khí phách Bà Trưng, Bà Triệu, được khắc ghi trong trái tim của người dân Việt Nam.
Đội Trưởng Biệt Đội
Thiên Nga Nguyễn Thanh Thuỷ
Khối Đặc Biệt – Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia
Nhớ lại ngày trước, trong chiến tranh, quý chị đã chăm sóc cho thương phế binh, quả phụ và gia đình tử sĩ của QLVNCH. Không phải chỉ có vậy, đôi khi quý chị còn chăm sóc luôn cả cho thương binh và tù binh cộng sản bị chúng ta bắt (Trớ trêu thay: người thương binh đầu tiên được truyền chai nước biển “nóng hổi” vừa được trực thăng mang về là một việt cộng. (Bác Sĩ Nguyễn Sơ Đông ). Còn điều quan trọng hơn nữa là quý chị đã và đang tiếp tục chăm sóc cho thế hệ tương lai. Chúng ta cần khuyến khích và nuôi dưỡng tinh thần yêu nước của các em và các cháu, để cho ngọn lửa đấu tranh của tuổi trẻ bừng sáng lên và tiến tới viết tiếp những trang sử hào hùng của dân tộc.
Hiện nay, nhu cầu tối cần thiết của chúng ta ở hải ngoại là nhu cầu đoàn kết, duy trì và phát triển tình huynh đệ chi binh trong các quân binh chủng. Chỉ có đoàn kết thì mới có thành công. Đoàn kết là bài học luôn được biến cải cho thích hợp với hiện tình, là căn bản để hành động. Đoàn kết còn là nguồn gốc của sức mạnh, là động lực, là khát vọng, là niềm tin. Đoàn kết luôn là mục tiêu, là nhiệm vụ hàng đầu để đấu tranh với cộng sản. Nhứt định chúng ta sẽ vươn xa hơn bởi sức mạnh của sự đoàn kết lúc nào cũng tiềm tàng trong tâm khảm người Việt. Chỉ có đoàn kết chúng ta mới có hy vọng diệt được nội thù và đuổi được ngoại xâm
Hai cánh hoa dù Nguyễn thị Dậu và
Phan cẩm Phi đang biểu diễn kỹ thuật
nhảy dù ở khu huấn luyện Tân Sơn Nhứt
Trong thời chiến, dù là nữ quân nhân đã từng chứng kiến quá nhiều cảnh tượng thương tâm lẫn xót xa của thân nhân tử sĩ, nhưng quý chị cũng không thể đè nén được cảm xúc, đôi mắt của quý chị đã phải rưng rưng lệ ngập lòng uất nghẹn khi đứng trước những quan tài được phủ lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ đang ôm lấy hình hài của những chiến sĩ mới hy sinh cho đất nước, bên những người thân đầu vừa chít vội mảnh khăn tang với những giòng lệ tuôn trào trong đau đớn và tiếc thương. Quý chị cũng không làm sao tránh được xốn xang, khi nhìn thấy các anh thương binh VNCH vừa trở về từ chiến trường đã không còn nguyên vẹn hình hài, người không còn tay, kẻ thì mất chân, có người không còn đôi mắt để nhìn lại người thân, những chiến hửu và đồng bào thương mến của mình thì làm sao họ có thể tự mưu sinh được.
Trung Úy Trần Huỳnh Mai
tại Bình Dương năm 1972Vì nỗi đau mất mát này, nên ngày nay quý chị tuy tuổi đã cao mà lòng vẫn thấy còn nợ điều gì đó với đồng đội, bạn bè, nợ với những anh hùng đã hiến dâng đời mình cho đất nước, nợ những chiến sĩ đã để lại một phần thân thể cho núi sông, nên quý chị cùng đồng đội và đồng bào tỵ nạn cộng sản vẫn tiếp tục chăm sóc cho thương phế binh và quả phụ VNCH còn lại trong nước. Nghĩa cử của quý chị đã làm cho TPB, quả phụ hãnh diện và tự hào vì luôn có những chiến hữu và đồng bào đứng bên cạnh vẫn ghi nhớ công ơn của họ, đó là ý chí quyết tâm, là truyền thống tốt đẹp của QLVNCH.
Hôm nay, tôi xin được nói lời tri ân đến những người chị đã nằm xuống cho công cuộc bảo vệ Miền Nam Việt Nam. Tên quý chị vĩnh viễn đi vào lịch sử, dân tộc Việt Nam sẽ không bao giờ quên ơn quý chị, người người thương tiếc quý chị, vì những gì quý chị đã để lại cho đời.
Sau hết, tôi xin gửi đến những Nữ Quân Nhân QLVNCH lời cảm ơn chân thành và lời chúc tốt đẹp nhứt đến với quý chị cùng gia đình.
Cổ Tấn Tinh Châu

Đại Tá Trần Cẩm Hương

- Sinh tháng 4 năm 1926 tại Cần Thơ
- Nhập ngũ ngày 21-8-1952
- Xuất thân trường Nữ Trợ Tá Xã Hội
- Đoàn Trưởng Nữ Quân Nhân
Trong sự kiện 30/4/1975, nữ Đại tá Trần Cẩm Hương quyết định ở lại Sài Gòn và đi tù cải tạo 10 năm. Sau khi ra trại năm 1985, bà bị điều đi lao động ở Hậu Nghĩa, ở một căn chòi lá giữa đồng khô, bị quản chế bởi vợ một liệt sĩ QGPMN. Do phải lao động nặng nhọc với điều kiện khắc nghiệt, nữ Đại tá Trần Cẩm Hương đã bị cảm nặng dẫn tới viêm màng não. Tuy gia đình có xin chuyển đi Sài Gòn chữa trị nhưng vì không được cán bộ quản thúc cho phép đi điều trị vì vậy vào hạ tuần tháng 2 năm 1987, bã đã không qua khỏi được cơn bạo bệnh, hưởng thọ 61 tuổi.
Tôi thấy nhị vị đại tá có vẻ chân tình đối thoại, chẳng hề đùa rỡn, nên bỗng cảm phục quá. Đại Tá X. trưởng phái đoàn Quân Đoàn I/Quân Khu I cười hà hả:
-Bà đại tá Trần Cẩm Hương của cô này bao giờ lên tướng đây?
Vị đại tá thuộc ngành quân số, tức phòng 1/TTM bèn phán:
-Ông có biết là muốn nhận cấp bậc đại tá phải có tròn 6000 (sáu ngàn) quân, chưa kể gia, giảm, ấn định chỉ huy một sư đoàn đấy nhé. Phụ nữ các cô có bao nhiêu người trong quân đội?
Tôi vui vẻ trả lời:
-Dạ thưa 6000 quân nhân các cấp (sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ) đúng với cấp khoản ấn định, tất nhiên có gia, giảm.
Sau đó chuyện rơi vào quên lãng. Như vậy, với quân số nêu trên, và thực tế cũng trả lời rằng, Đoàn Nữ Quân Nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chỉ có một vị đại tá, là nữ Đại Tá Trần Cẩm Hương, trưởng nữ của cụ Kỹ Sư công chánh Trần Văn Mẹo, Bộ Trưởng Công Chánh (Đệ Nhất Cộng Hòa).
Cấp bậc gì thì bây giờ cũng chỉ là kỷ niệm như tôi đã trình bày trên. Tuy nhiên, kỷ niệm cũng phải có nguyên, có ủy, chứ không thể như đám mây khói bay lên cao để thành… mây, nói chữ là phù vân.
Ấy vậy mà mới đây tôi được đọc một bài văn, trong đó tác giả là văn nghệ sĩ tên tuổi, nhưng ông không rõ về Đoàn Nữ Quân Nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đã ghi nhận ý kiến của phu nhận một vị đại tá Pháo Binh xưa, rằng bà phu nhân đó là “Nữ Đại Tá Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa”, khiến có độc giả thân quen điện thoại hỏi tôi, tôi bèn thưa thế này:
-”Nữ Đại Tá” thì khác với bà đại tá, bà đại tá là phu nhân nam đại tá, tức làm vợ vị đại tá có danh vọng, có địa vị, cơ ngơi điền sản, con cái v.v… quý hóa quá rồi, danh giá quá rồi.
Còn Nữ Đại Tá của đoàn thể tôi, thì chỉ duy nhất có Đại Tá Nữ Quân Nhân Trần Cẩm Hương, bà kẹt lại Saigon sau 30.4.1975, nên cũng phải đi tù cải tạo 10 năm (mười năm), và ra trại, bà phải đi lao động ở Hậu Nghĩa, ở một căn chòi lá giữa đồng khô, bị quản chế bởi vợ một liệt sĩ cộng sản Việt Nam, làm rẫy. Nữ Đại Tá Trần Cẩm Hương đã thất lộc vào hạ tuần tháng 2 năm 1987, hưởng dương 60 tuổi, vì bệnh… hàng ngày làm cây, làm cỏ nơi cánh đồng khô nhiệt đới, đã từ cảm nặng, qua sưng màng óc, gia đình xin di chuyển về thành phố để chữa trị, mà không được.
Lại cũng “Âu là cái số!”
Hawthorne, 18.7.2013

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Xứ Sở Hận Thù

Tại sao cả thế giới phải dõi theo Cục dự trữ liên bang Mỹ ngày hôm nay?