Trần Văn Chánh - Tổng thuật thói hư tật xấu người Việt (3)


  • Bởi Khách
    144 lượt đọc
    01/08/2015
    0 phản hồi
    Trần Văn Chánh

    NHÌN SANG NƯỚC “ĐỒNG VĂN”: NGƯỜI TRUNG QUỐC XÉT TẬT MÌNH

    Các cụ ngày xưa thường gọi lân bang Trung Quốc là nước “đồng văn”, không chỉ vì Trung Quốc với Việt Nam đều cùng nằm trong khu vực Đông Á, mà còn có một số điểm tương đồng về mặt chủng tộc, văn hóa và tâm lý nữa. Trong thời hiện đại, cả hai nước lại tiếp tục tương tự nhau về thể chế chính trị, nên thực tế mà nói, trong việc “xét tật mình”, Việt Nam cũng nên chịu khó tìm hiểu cách làm của Trung Quốc, để từ đó tham khảo, soi rọi lại mình.
    Tương tự tình hình ở Việt Nam đầu thế kỷ XX, các nhà nho tiến bộ và trí thức tân học của Trung Quốc (như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, Đàm Tự Đồng, Hồ Thích, Lỗ Tấn…) cũng đã từng làm cái việc cấp thiết ấy rồi, nhưng trong thời hiện đại thì chúng tôi chỉ muốn nhắc đến cuốn sách tiêu biểu Người Trung Quốc xấu xí (Xú lậu đích Trung Quốc nhân) của Bá Dương một thời gây xôn xao dư luận, đã có bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Hồi Thủ ở Paris năm 1998. Bản dịch ra tiếng Nhật cũng rất được người Nhật quan tâm theo dõi.
    Sách gồm 3 phần: (1) Những bài nói chuyện; (2) Những bài viết; (3) Những bài phê bình (của người khác) về hai phần đầu.
    Tác giả sinh năm 1920 ở Trung Quốc, sang định cư Đài Loan từ năm 1949, từng bị Đài Loan cho ngồi tù 10 năm vì tội “phạm thượng”. Ông được nhiều người biết đến như một nhà thơ, nhà văn, nhà báo, và nhất là nhà viết lịch sử thông tục. Quyển sách nêu trên của Bá Dương là tập hợp bản thảo những bài diễn giảng trong một số trường hợp công khai khác nhau, từ năm 1977, nhưng những bài viết và diễn giảng của ông phát biểu ở hải ngoại thì đều chú trọng nói huỵch toẹt ra những mặt xấu xí cũng như căn tính kém cỏi của người Trung Quốc.
    Trong sách này, Bá Dương tiếp cận vấn đề từ cái gốc văn hóa để giải thích nguyên nhân mọi hiện tượng lệch lạc trì trệ kéo dài của xã hội Trung Quốc. Theo Bá Dương, cả đời ông (cũng như những người Hoa khác) sống gian nan thì đó không phải vấn đề cá nhân hay chính trị, nhưng thuộc vấn đề văn hóa: “Đây không phải là gian nan một cá nhân đã trải qua, cũng không phải hoạn nạn của riêng thế hệ cá nhân tôi. Nếu chúng ta không thấu hiểu được cái hoạn nạn này, không hiểu được những nhân tố độc hại của văn hóa Trung Quốc thì vĩnh viễn chúng ta không thể ngăn ngừa được sự tái sinh của nó”.
    Kiếp người trên đời này giống như một cục sỏi trong một máy nhào ximăng, sau khi bị nhào trộn, thân chẳng tự chủ được. Điều ấy khiến tôi cảm thấy đó không phải là một vấn đề của riêng một cá nhân nào, nhưng là một vấn đề xã hội, văn hóa”.
    Tôi nghĩ người Trung Quốc chúng ta có phẩm chất cao quý. Nhưng tại sao cả trăm năm rồi, cái phẩm chất ấy thủy chung vẫn không làm cho người Trung Quốc thoát khỏi khổ nạn? Nguyên do vì sao? Tôi muốn mạo muội đề xuất một câu trả lời có tính cách tổng hợp: Đó là vì văn hóa truyền thống Trung Quốc có một loại siêu vi trùng, truyền nhiễm, làm cho con cháu chúng ta từ đời này sang đời nọ không khỏi được bệnh”.
    Ở bài nói “Người Trung Quốc và cái vại tương”, ông đã so sánh văn hóa Trung Quốc chẳng khác một vại tương/ hũ tương (“tương cang”), mà tương chứa trong vại là một thứ “chất đặc không chảy được, không giống nước sông Hoàng hà từ trên trời chảy xuống một tý nào… Nó là một thứ nước ao tù, lại được để cho bốc hơi, cho lắng đọng nên nồng độ càng ngày càng đông đặc. Cái văn hóa của chúng ta, cái tiền oan nghiệp chướng như đã nói cũng là như thế” (bản tiếng Việt của Nguyễn Hồi Thủ).
    Nhưng cái chất chứa trong vại tương đó là gì?
    Bá Dương giải thích:
    Trong văn hóa Trung Quốc, cái có thể gọi là điển hình nhất cho cái đặc sắc này là chế độ ‘quan trường’. Thời xưa mục đích học hành của các phần tử trí thức là làm quan. Cái chữ ‘trường’ nhìn không thấy, sờ không đụng này được hình thành qua chế độ khoa cử. Một khi người đọc sách đã lọt vào được chốn quan trường liền ở vào trạng thái đối nghịch với người thường, với nhân gian. Dưới chế độ đó người đi học cốt chỉ được làm quan, vì có câu nói rằng trong sách có nhà vàng, có nhan sắc như ngọc. Đọc sách để có thể làm quan, làm quan ắt có mỹ nữ, kim tiền (…). Xã hội phong kiến đặt cái lợi ích của những người làm quan lên trên hết, và vì nó đã khống chế Trung Quốc quá lâu, nên tạo thành một lực lượng và một ảnh hưởng vô cùng lớn.
    Về mặt kinh tế không có gì thay đổi đáng kể, nhưng về mặt chính trị nó đã kìm hãm chúng ta lâu dài trong cái hũ tương văn hóa đó. Một trong những cái đặc trưng của nó là đặt tiêu chuẩn của giới quan lại thành một cái chuẩn cho xã hội, biến lợi ích các quan thành cái lợi chung. Vì vậy nó đẻ ra một thứ ngày nay gọi là “Chính trị thống soái” theo kiểu nói của Mao, làm cho cái hũ tương văn hóa của chúng ta càng thêm sâu đậm, càng thêm nồng nặc.
    Chìm đắm lâu dài trong cái hũ tương đó, người Trung Quốc trở thành ích kỷ, nghi kị”. Nghĩa là luôn bị trói chặt bởi những thói xấu mà chẳng khá lên được.
    Ở một đoạn khác, ông viết: “Người Trung Quốc sống trường kỳ trong cái hũ tương, lâu ngày quá tự nhiên sinh ra một tâm lý cẩu thả. Một mặt tự đại khoe khoang, còn mặt khác tự ti, ích kỷ”.
    Hoặc: “Trung Quốc là một nước lớn, nhưng người Trung Quốc thật nhỏ mọn và hẹp hòi”.
    Ông Bá Dương tái khẳng định: “Mòn mỏi dưới chế độ xã hội phong kiến chuyên chế tự bao đời, đắm chìm ngụp lặn trong cái hũ tương đó, óc phán đoán cùng tầm nhìn của người Trung Quốc đã bị tương làm ô nhiễm nặng, không vượt ra nổi cái phạm vi ảnh hưởng của nó”.
    Rồi đi tới kết luận: “Một xã hội có trình độ thưởng thức tức biết cái hay cái dở, tức không hồ đồ trước bất cứ một sự việc gì; chứ mọi người cứ ù ù cạc cạc như ở trong hũ tương, bẩn sạch, cao thấp cũng không phân biệt thì làm sao tiến bộ và phát triển được?”.
    Mượn văn hóa hũ tương (đặc sệt) để hình dung văn hóa Trung Quốc, ông Bá Dương cho rằng “Cái xấu xí của chúng ta là ở chỗ chúng ta không biết mình xấu xí”. Đây là trung tâm điểm bàn luận về văn hóa Trung Quốc nhằm mục đích kêu gọi dân tộc Trung Quốc phải tự mình phản tỉnh, vì phản tỉnh là bước khởi đầu để hướng đến sự tiến bộ.
    Khi nói huỵch toẹt ra các sự thật, ông Bá Dương hoàn toàn không muốn bêu xấu dân tộc mình, như đã bị một số người chỉ trích. Trái lại, có lẽ vì ông quá yêu nước yêu dân tộc mình, theo cách nghĩ riêng của ông, tha thiết muốn đất nước tiến bộ, nên đã không ngần ngại nói thẳng sự thật, chẳng giống một số người Trung Quốc khác, vì yêu nước (thật hoặc giả) mà cứ cố lảng tránh sự thật khi nói về dân tộc mình theo hướng chỉ muốn nêu lên những mặt ưu điểm.
    Tổng quát, Bá Dương cho rằng trí khôn/ trí thông minh (linh tính) là một loại phản ứng được kích phát lên từ sự thiện lương, hòa bình, khoan thứ, nhưng xã hội Trung Quốc không biết gì tới phải trái mà chỉ kể chuyện lợi hại, không chỉ con người văn hóa là như thế mà hạng chính khách lại còn tệ hơn thế nữa. Người Trung Quốc hiện đang bị ngạt thở vì tiền và quyền, khiến mắt không còn thấy, tai không còn nghe, đầu óc chỉ biết truyền những tin tức liên quan đến tiền và quyền, còn lại bất kỳ tin tức gì khác về trí thông minh thì đều bị ngăn trở hết cả.
    Ông cũng cho rằng, người Trung Quốc là một dân tộc bị thương tổn rất sâu dưới nhiều loại sức ép, nên chẳng nuôi dưỡng ra được khả năng khen ngợi và đánh giá cao người khác, trái lại còn phát triển ra hai thứ ngôn ngữ lưỡng cực hóa là nói xấu và nịnh hót người khác. Muốn người Trung Quốc bồi dưỡng ra được thứ ngôn ngữ lành mạnh, cần bắt tay từ sự lành mạnh của tâm linh, và như vậy “e rằng cần phải trải qua một quá trình giáo dục rất lâu dài”.
    Tuy có nhiều lời phê bình chỉ trích nặng nề đối với người Trung Quốc, nhưng căn bản Bá Dương cho rằng tình trạng vẫn còn có thể cứu vãn được, chưa hết thuốc chữa. Để làm hết sức mình, Bá Dương cùng bạn bè ông đang tích cực phổ biến rộng rãi tư tưởng nhân quyền vốn chưa từng có trong văn hóa truyền thống Trung Quốc, với hi vọng nhân quyền sẽ có thể trở thành mối quan tâm cuối cùng và lý tưởng cuối cùng của người Trung Quốc, giúp Trung Quốc thay xương đổi thịt, giống như những nước văn minh khác, để trở thành một dân tộc có tôn nghiêm và lại biết coi trọng sự tôn nghiêm của người khác.
    Quyển sách, vốn tập hợp từ những bài nói chuyện và tranh luận, đã ra đời một cách khá vất vả vì bị ngăn trở đủ thứ. Đầu tiên, năm 1985, nó đã được Lâm Bạch Xuất Bản Xã xuất bản tại Đài Loan, sang năm sau (1986) mới xuất bản ở Trung Quốc đại lục (do Hồ Nam Văn Nghệ Xuất Bản Xã), nhưng do có phong trào học sinh Trung Quốc bùng nổ năm 1987, toàn bộ sách của Bá Dương đều bị cấm bán, phải đợi đến năm 2004 mới được cho phép phát hành trở lại.
    Được biết, ở Trung Quốc đại lục có đến 6 ấn bản khác nhau, trong đó bản của Bắc Kinh Thời Sự Xuất Bản Xã có nội dung không giống với bản đầy đủ hơn của Hồ Nam Văn Nghệ Xuất Bản Xã 1986. Về sau, cuốn Người Trung Quốc xấu xí in ở Đại lục năm 2004 (do Cổ Ngô Hiên Xuất Bản Xã) đã bị cắt bớt một phần nội dung, chủ yếu những đoạn liên quan đến một số sự kiện lịch sử về Đảng Cộng sản Trung Quốc và cuộc Đại cách mạng văn hóa. Năm 2008, sách lại được cả hai nhà xuất bản khác tái bản (Nhân Dân Văn Học Xuất Bản Xã và Viễn Lưu Xuất Bản Sự Nghiệp Công Ty).
    Đọc Bá Dương, mặc dù chỉ cần thông qua bản tiếng Việt tài năng và đầy tâm huyết của Nguyễn Hồi Thủ (chưa được xuất bản chính thức ở Việt Nam), người đọc sẽ thấy ông là người nói năng cang trực, huỵch toẹt, nhưng lý luận vững chắc, với kiến thức quảng bác, lời văn hùng hồn, bút lực thâm hậu, khi dẫn chuyện để trình bày vấn đề gì thì luôn duyên dáng, hấp dẫn, đầy sức thuyết phục, chứng tỏ ông đã suy nghĩ nát nước về dân tộc Trung Hoa mà ông rất mến yêu. Có lẽ cũng vì vậy mà sau khi sách xuất bản, bên cạnh số đông người trẻ ủng hộ, so sánh Bá Dương như Lỗ Tấn với AQ chính truyện, ông đã bị không ít mũi dùi dư luận chĩa vào. Đáng kể nhất có lẽ là cuốnNghiên cứu Người Trung Quốc xấu xí (Xú lậu đích Trung Quốc nhân nghiên cứu) của Lý Ngao, công kích kịch liệt tác phẩm của Bá Dương.
    Họ Lý cho rằng, cái gọi “Người Trung Quốc xấu xí” chẳng qua chỉ là một loại ấn tượng cứng nhắc (“khắc bản ấn tượng”), Bá Dương đã đem cái xấu xí của một bộ phận người Trung Quốc gán ghép úp chụp lên hết thảy mọi người Trung Quốc, đó là hành vi của một kẻ hèn yếu/ nhu nhược bất tài. Họ Lý còn bảo chính Bá Dương, kẻ bề tôi hầu hạ cho nền văn học Quốc Dân Đảng mới là thứ người Trung Quốc xấu xí thứ thiệt!
    Ông Bá Dương đã “kể xấu” gì người Trung Quốc mà bị công kích dữ dội?
    Nói chung không tiện liệt kê ra hết, nhưng nếu chỉ dựa theo bài “Người Trung Quốc xấu xí” (diễn văn đọc tại Đại học Iowa ngày 24.9.1984) nêu ở đầu sách, thì thấy ông có nói mấy điểm, mà điểm nào cũng phân tích, chứng minh rất rạch ròi. Từ đây xin trích gọn một số mặt xấu xí do tác giả nêu ra để làm luận cứ chứng minh cho cái văn hóa vại tương Trung Quốc của mình:
    Một trong những đặc tính rõ nhất là dơ bẩn, hỗn loạn, ồn ào. (…) Cho nên có thể nói, mỗi người Trung Hoa đều là một con rồng, nói năng vanh vách, cứ như là ở bên trên thì chỉ cần thổi một cái là tắt được mặt trời, ở bên dưới thì tài trị quốc bình thiên hạ có dư. Người Trung Hoa ở một vị trí đơn độc như trong phòng nghiên cứu, trong trường thi- nơi không cần quan hệ với người khác- thì có thể phát triển tốt. Nhưng nếu ba người Trung Hoa hợp lại với nhau, ba con rồng này lại biến thành một con heo, một con giòi, hoặc thậm chí không bằng một con giòi nữa. Bởi vì người Trung Hoa có biệt tài đấu đá lẫn nhau. Chỗ nào có người Trung Hoa là có đấu đá, người Trung Hoa vĩnh viễn không đoàn kết được (…). Đường đường là một nước lớn, thế mà thay vì có một tấm lòng bao la, người Trung Quốc lại có một tâm địa thật hẹp hòi… đưa đến một đằng tuyệt đối tự ti, một đằng tuyệt đối tự kiêu. Lúc tự ti thì thành ra tôi tớ, nghĩ mình không bằng đống phân chó. Lúc tự kiêu thì thành ông chủ, xem mọi người đều là cứt chó hết (…).Viết được dăm ba bài văn là đã thành văn hào. Đóng được hai bộ phim đã là ngôi sao sáng của nền điện ảnh. Hai năm có được ít chức quyền nghiễm nhiên có thể cho mình là cứu tinh của nhân dân. Qua Mỹ học được hai năm đã trở thành một học giả chuyên gia (…). Người Trung Quốc ưa làm quan, phong kiến, khi phán xét, suy luận, không dùng lý trí mà nặng về cảm tính; xã hội dựa trên tiêu chuẩn chính trị đạo đức thời phong kiến hủ nho, đặt lợi ích của người làm quan lên trên. Lâu ngày, những thói tục xấu xa ăn sâu vào “nhiễm thể”, kết quả là “quả báo nhãn tiền”. Cuộc chiến tranh nha phiến là một thí dụ (…). Dân vi quý, quân vi khinh (dân là quý, vua là thường), đấy chỉ là một thứ lý tưởng mà Trung Quốc chưa bao giờ thực hiện. Người Trung Quốc xưa nay có bao giờ biết dân chủ, tự do, pháp trị là gì. Tuy có người bảo chúng ta cũng có tự do, có thể chửi cả hoàng đế, song thật ra quyền tự do của chúng ta rất có hạn, bị kẻ thống trị khống chế trong phạm vi cho phép (….). Phạm vi của tự do rất hẹp hòi. Đương nhiên có thể có cái tự do suy nghĩ vớ vẩn chứ các khái niệm dân chủ, pháp trị thì hoàn toàn chẳng có (…).
    Trong bài “Đời sống, văn học và lịch sử” (diễn văn đọc ở trường đại học Stanford, S. Francisco, 1981), Bá Dương liệt kê năm khuyết điểm: (1) Vì nhân quyền, nhân tính, phẩm giá con người bị chế độ và xã hội phong kiến chà đạp trong suốt 5000 năm, khiến dân không còn lòng tự trọng; cái tự trọng còn lại chẳng qua cũng chỉ là cái tinh thần tự dối mình như AQ trong truyện của Lỗ Tấn (…); (2) Sau 4000 năm chiến tranh liên miên chỉ vì bần cùng, giết chóc, đố kỵ một cách lâu dài thành ra lòng dạ chúng ta thành hẹp hòi; (3) Chế độ khoa cử, quan trường, tạo ra một tầng lớp quan liêu chẳng trung thành với quốc gia lãnh tụ gì cả, chỉ tận tâm tận lực với kẻ cất nhắc nó lên làm quan (….). Cái xã hội ăn chơi, phù hoa là nơi các quan ra oai, tự nhiên hình thành một hệ thống tương hỗ bao che giữa các quan với nhau – một quan hệ vô cùng phức tạp (…), đến độ một người lành mạnh không thể nào chịu nổi; (4) Tinh thần Nho giáo bảo thủ, khiến xã hội mất hết sức sáng tạo, mất tập quán tự tìm hiểu, tự phê phán; (5) Trung Quốc quá đông, nghèo khổ quá lớn, quan trường quá mạnh, cạnh tranh quá khắc nghiệt, những lý do này sinh ra nơi người Trung Quốc cái hiện tượng bẩn, loạn, ồn, xâu xé lẫn nhau (…). Tôi cho Trung Quốc là một nước tuyệt đối không trọng lễ nghĩa. Người Trung Quốc thật thô lỗ… Người Trung Quốc thông minh (….) đến độ khi bị đem đến lò sát sinh, còn cố cò kè về giá cả của mình, nếu kiếm thêm được vài đồng thì chết rất hả hê. Cái kiểu thông minh quá cỡ này nhất định sẽ thành kiểu ích kỷ quá cỡ (…). Người nào mà không suy nghĩ một cách ích kỷ, cư xử một cách ích kỷ đều bị chế diễu là ngu ngốc (…).
    Ở những đoạn cuối sách, Bá Dương tiếp tục tố cáo: Con người là một loại động vật biết cười. Nhưng những cô y tá, những cô bán vé xe người Trung Quốc lại là một ngoại lệ (…). Trừ phi vứt tiền vào mặt họ, thì ngay cả ông trời cũng chẳng có thể cậy mồm họ ra cho họ cười được…
    So sánh với nước Mỹ, dân Mỹ, Bá Dương chê dân mình trong chuyện tiếp xúc, giao tế, không trọng khách hàng, thiếu lễ nghĩa, không biết nói cám ơn, xin lỗi, không biết xếp hàng trật tự (…). “Tôi nghi rằng để có thể móc trong mồm một người Trung Quốc ra cái câu ‘cám ơn ông’ e rằng nếu không dùng đến cái cào cỏ năm răng của ông bạn Trư Bát Giới của chúng ta thì không thể được”.
    Bằng chứng của ông về một đất nước thiếu lễ nghĩa, là những nhận xét về cung cách ứng xử của người Trung Quốc trong các buổi đình đám vui chơi hay tang ma: Hôn lễ không ra hôn lễ mà biến thành một loại phường chèo (…), trở nên một thứ miếu đền ồn ào náo nhiệt (…). Và cũng vậy, tang lễ (…) trở thành một bản sao của cái loại ‘đám cưới văn minh’ đã nói trên (…). Sự thực, ngay ở nơi quàn xác chết hiển nhiên cũng đã thành chỗ kết bè kết đảng, lại đương nhiên thành chỗ “xa nhà gặp người quen” thì nét mặt phải tươi cười rạng rỡ (…).
    Nói về các phố Tàu (trên thế giới Tây phương), ông hạ lời cay độc: Các phố Tàu đã trở thành những động quỷ nuốt tươi người Trung Quốc, thành nơi chứa chấp vô số người ở chui không giấy tờ. Ở đó trẻ con hoặc các bà già nhiều khi không có cách nào khác hơn cách làm việc trong các xưởng quần áo lậu với đồng lương không đủ húp cháo cầm hơi, chẳng khác gì những nô lệ da đen thuở nào (…).
    Than ôi! Trong thế giới này chỉ có cái thiên tính nhu nhược của người Trung Quốc mới không dám căn cứ trên lý lẽ để đấu tranh. Nếu có vài người dám làm như vậy thì những con giòi trong hũ tương cho rằng đấy là những phần tử cực đoan không an phận. Mọi người đều sống theo cái kiểu “Thôi! Bỏ qua! Bỏ qua đi!”. Cái gì nó qua thì để cho nó qua, quá khứ thì hãy để cho nó là quá khứ (…).
    Về giải pháp, theo Bá Dương, có thể tóm tắt: Muốn thay đổi, phải học của người khác những điều hay tốt ở các nước tiên tiến (…). Nếu như cứ một mực kiêu ngạo hão…, thì không tránh khỏi sẽ đi vào cái ngõ của sự diệt vong (…). Nếu chúng ta muốn người Trung Quốc có thể mở rộng cái tấm lòng nhỏ hẹp ra, chúng ta phải học tập của người phương Tây sự vui vẻ phóng khoáng, tấm lòng thích giúp người (….). Đứng trước người Tây phương lễ độ, lịch sự, có thật là chúng ta không cảm thấy thẹn vì mình thấp hèn không? (…).
    Đọc xong cuốn sách, nhiều người sẽ có thể thấy được, ông Nguyễn Hồi Thủ, tuy chỉ là dịch giả, chắc cũng có một tấm lòng gần như tác giả Bá Dương khi nghĩ về dân tộc mình, mới bỏ công ra dịch. Có người còn cho rằng, nếu thử thay tên nước Trung Quốc bằng Việt Nam (và thay Đài Loan, Đài Bắc bằng Sài Gòn, Hà Nội…), thì người đọc rất có thể tưởng cuốn sách đang viết về nước Việt Nam, vì sự mô tả, phân tích có nhiều điểm rất trùng hợp với hoàn cảnh Việt Nam, hay nói khác hơn có quá nhiều bóng dáng người Việt trong đó, với những nét “xấu xí” phảng phất Trung Quốc, mà người Việt có thể qua đó tham khảo để tự soi rọi lại mình.

    XÉT TẬT NGƯỜI VIỆT HIỆN ĐẠI

    Về việc xét tật mình để cầu tiến bộ cho dân tộc thì giới trí thức Việt Nam ta cũng đã có làm, coi như song song và cùng thời với Trung Quốc, chủ yếu từ đầu thế kỷ XX. Như ở một phần trên, chúng tôi đã tóm tắt lại những ý kiến nhận xét của tiền bối liên quan thói hư tật xấu của người Việt từ công trình sưu tập của nhà văn Vương Trí Nhàn, và cũng từ công trình có thể gọi đầu tiên và độc đáo này trong thời hiện đại, mặc dù chưa xuất bản chính thức, chúng ta thấy giới trí thức Việt Nam hiện nay đã bắt đầu có không ít người chú ý đặt lại vấn đề đổi mới đất nước nhằm thoát khỏi cảnh nghèo nàn lạc hậu theo hướng tiếp cận cội nguồn văn hóa, lịch sử vốn là nguyên nhân gây nên những thói hư tật xấu như là căn tính của người Việt để tìm cách sửa chữa từ căn bản, thay vì cứ tiếp tục công kích vào những hiện tượng tiêu cực xã hội lẻ tẻ cứ ngày một phát sinh, gia tăng, kéo dài, và hầu như vô phương cứu chữa.
    Trước Vương Trí Nhàn, có thông tin cho biết hai cố giáo sư Trần Quốc Vượng và Cao Xuân Hạo đã từng bày tỏ ý định sẽ viết sách về thói xấu người Việt, nhưng rất tiếc chưa bắt tay vào việc thì họ đều đã qua đời.
    Trong một bài trả lời phỏng vấn báo Tiền Phong (21.9.2006) cho chủ đề liên quan cuốn sách đương làm về thói hư tật xấu người Việt, nhà văn-nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn cho rằng “Thông thường thì gọi là thói hư tật xấu của người Việt Nam, nhưng thực ra nó là trình độ sống, trình độ làm người của người Việt Nam… Điều quan trọng bây giờ là tự nhận thức mình xem anh là người thế nào, anh là ai. Tất cả tương lai của dân tộc nằm trong hành động này… Một trong những thói xấu của người Việt Nam là rất sợ nói đến thói xấu… Cả xã hội đóng băng trong sự tự khen thưởng… Nhưng thói xấu lớn nhất vẫn là sợ người khác nói xấu mình. Làm ăn với nước ngoài mà cứ lấy tinh vặt (ranh ma, khôn vặt) làm kế sinh lãi. Tôi rất không đồng ý với cuốn Thần đồng đất Việt, vì trong đó toàn ca ngợi cái tinh vặt, láu cá của người Việt khi làm ăn với ngoại quốc. Cái đó không đáng tự hào”.
    Thật ra, công việc phê bình những thói xấu/ khuyết tật của người Việt, các phương tiện truyền thông như báo, đài trong nước vẫn thường làm, đặc biệt khi có xảy ra những chuyện xấu như bẻ hoa trong hội hoa xuân, giẫm đạp chen lấn nhau trong các kỳ lễ hội, hôi của…, nhưng việc phê bình còn lẻ tẻ, thiếu tính hệ thống. Từ ngày 24. 9.2006, báo Tiền Phong (cả trên báo giấy và báo điện tử) đã sớm có sáng kiến mở chuyên mục “Người Việt-Phẩm chất và thói hư tật xấu” như một diễn đàn để thu thập ý kiến rộng rãi từ phía bạn đọc (chủ yếu ở khu vực miền Bắc), “ngõ hầu cảnh tỉnh chung, trước hết thoát khỏi ‘thói xấu lớn nhất của người Việt là rất sợ nói về thói xấu của mình’”, và một phần nội dung quan trọng của diễn đàn này đã được tuyển chọn biên tập lại thành sách (xem Nhiều tác giả, Người Việt-Phẩm chất và thói hư tật xấu, NXB Hồng Đức, 2013). Gần đây, nhân câu chuyện cô tiếp viên hàng không bị phát hiện xách hàng ăn cắp bên Nhật, người Việt Nam cả trong lẫn ngoài nước đều cảm thấy như đạp phải gai vì xấu hổ lây, từ đó lại dấy lên một cao trào tự kiểm điểm thói xấu của người Việt, thể hiện sôi nổi qua mấy tờ báo lớn trong nước (như Tuổi Trẻ… ), cũng như trên một số trang mạng xã hội.
    Bằng cách tổng kết lại từ các diễn đàn khoảng gần chục năm nay liên quan vấn đề đang xét, chúng ta sẽ có được một cái nhìn tổng quan về những thói xấu/ khuyết tật tồn tại qua nhiều thế hệ (thậm chí thế kỷ) ở đất nước ta song vẫn chưa khắc phục được.
    Trong quá trình tìm hiểu, chúng tôi tình cờ tìm thấy bài viết “Chỉ tên những tật xấu của người Việt thời nay” của TS Phạm Gia Minh đăng trên Tuanvietnam.net ngày 25.8.2008. Trong bài, tác giả đề nghị hãy cùng nhau lên một danh mục, tạm gọi là “Danh mục các thói hư, tật xấu của người Việt thời nay” nhằm “vạch mặt, chỉ tên” càng chính xác càng tốt những biểu hiện tinh vi và đa dạng của nó.
    Theo tác giả, thời trước cũng có “người Việt xấu xí”, “nhưng có lẽ trong kỷ nguyên của hội nhập quốc tế hôm nay, vì lòng tự trọng, tự tôn dân tộc, chúng ta cần có thái độ tự phê phán cao hơn, khi phải hàng ngày hàng giờ tự soi mình vào tấm gương toàn cầu hóa, để phát hiện ra và tích cực sửa những nét lạc lõng, dị biệt với mọi giá trị nhân văn của thế giới văn minh”.
    Sau khi đưa ra hai thói xấu phổ biến điển hình hiện nay ở Việt Nam là đua xe và tham nhũng, chỉ ra cách khắc phục cụ thể cho từng trường hợp, với niềm xác tín vào khả năng “đẩy lui được con bệnh”, tác giả đã thử phác thảo danh mục các thói hư tật xấu của người Việt thời nay (xếp theo bảng chữ cái tiếng Việt), như sau:
    A: An phận thủ thường; Ăn bẩn; Ăn người; Ăn cắp vặt, Ăn hơn, làm kém; Ăn tục nói phét; Ảo tưởng; Ăn xổi ở thì; Ẩu v.v…
    B: Bàng quan; Bảo thủ; Bằng cấp giả; Bán trời không văn tự; Bài ngoại; Bắt cóc bỏ đĩa; Bóc ngắn, cắn dài; Bè phái; “Buôn dưa lê”; Bới bèo ra bọ v.v…
    C: Cãi nhau to vì chuyện nhỏ; Chen ngang khi phải xếp hàng; Chọc gậy bánh xe; Chụp giật; Chửi bậy, cục súc; Cờ bạc; Coi thường pháp luật; Cù nhầy; Cửa quyền; Cười không đúng chỗ, đúng lúc v.v…
    D: Du di; Dị ứng tri thức; Dzô dzô (ăn nhậu thái quá) v.v…
    Đ: Đâm bị thóc, chọc bị gạo; Để bụng; Đỏ đen; Đố kỵ; Đùn đẩy; Đua xe v.v…
    E: Ép buộc; Ép uổng v.v…
    G: Gắp lửa bỏ tay người; Gia trưởng; Giả dối; Giàu ghen, khó ghét; Giậu đổ bìm leo v.v…
    H: Hách dịch; Hiếu chiến; Hòa cả làng; Hô khẩu hiệu suông; Hứa hão; Hút thuốc lá v.v…
    I: Ích kỷ hại người v.v…
    K: Khoe khoang; Khôn lỏi; Không đúng giờ; Không chính kiến; “ Khuỳnh”; Kỳ vĩ v.v…
    L: Làm láo, báo cáo hay; Làm liều; Làm theo phong trào; Lập lờ nước đôi; Lệ làng; Lý nhẹ hơn tình v.v…
    M: Mạnh ai nấy chạy; Mất đoàn kết khi sung sướng, đầy đủ; Mê tín v.v…
    N: Ném bùn sang ao; Nịnh trên nạt dưới; Nhai to; Nhậu nhẹt triền miên; Nhổ bậy; Nhếch nhác; Nghĩ ngắn hạn (tư duy nhiệm kỳ); Ngoáy mũi nơi đông người; Nói dai, nói dài, nói dại; Nói một đằng, làm một nẻo; Nói to nơi công cộng; Nói phách (nói khoác lác); Nể nang; Nửa vời v.v…
    O: Oai hão; Ôm đồm; Ôm rơm rặm bụng; Ông giơ chân giò, bà thò nậm rượu (thông đồng làm việc khuất tất) v.v…
    P: Phép vua thua lệ làng; “Phong bì” (hối lộ); Phô trương; Phung phí v.v…
    Q: Qua cầu rút ván; Qua loa đại khái; Quan liêu; Quan trọng hóa vấn đề; Quy hoạch treo v.v…
    R: Ra oai; Ranh vặt; Rượu chè v.v…
    S: Sai hẹn; Sĩ diện hão; Sính ngoại; Sợ trách nhiệm; Sợ người khác giỏi hơn mình v.v…
    T: Tâm lý vùng (địa phương hẹp hòi); Tiểu nông, tiểu trí; Tiểu xảo; Tiểu khí (tiểu nhân, hạn hẹp); Tham nhũng; Thấy kẻ sang bắt quàng làm họ; Thụ động; Tư duy nhiệm kỳ; Tự ti dân tộc nhược tiểu v.v…
    U: Ưa xiểm nịnh; Ức hiếp kể yếu; Ừ hữ cho qua; Ương ngạnh v.v…
    V: Vặt vãnh; Vẽ vời; Vênh váo; Vị kỷ; Vị nể; Viển vông; Viết, vẽ bậy nơi công cộng; Vòi vĩnh; Vung tay quá trán v.v…
    X: Xa dân; Xa rời thực tế; Xả rác nơi công cộng v.v…
    Y: Ỷ lại; Ỷ quyền thế; Ý thức tập thể, cộng đồng kém v.v…
    Xét danh mục trên đây, thấy có một số điểm (tật xấu) được nêu ra trùng lặp, như “Nghĩ ngắn hạn” với “ Tư duy nhiệm kỳ”… Một vài điểm khác có lẽ cũng chưa nên liệt hẳn vào tật xấu, như “Hút thuốc lá”, vì đây kể như thuộc cái chung “nhân loại” mà dân tộc nào cũng có… Bảng danh mục trên đây cũng chưa tách bạch, mà trộn lẫn, giữa những thói xấu thuộc sinh hoạt cá nhân (như Nhổ bậy, Ngoáy mũi nơi đông người…) với sinh hoạt cộng đồng (Chen ngang khi phải xếp hàng, Đua xe, Viết vẽ bậy nơi công cộng, Xả rác nơi công cộng… ); giữa những khuyết tật/ nhược điểm về đầu óc-tư duy-tư tưởng (như Ăn tục nói phét, Ảo tưởng, Bảo thủ, Thụ động, Ương ngạnh, Vênh váo, Viển vông, Ỷ lại…) với nhân sinh quan/ thái độ sống (như An phận thủ thường, Vị kỷ…); giữa những quan hệ cá nhân (như Ưa xiểm nịnh, Ức hiếp kẻ yếu…) với hành vi có tính chất công quyền do cơ chế quản lý bất hợp lý gây ra (như Cửa quyền, Hô khẩu hiệu suông, Làm láo báo cáo hay, Làm theo phong trào, Phong bì/ Hối lộ, Quan liêu, Quy hoạch treo, Tham nhũng, Tư duy nhiệm kỳ, Xa dân, Xa rời thực tế…)…
    Trong bài viết “Tính xấu của người Việt Nam” (posted on February 10, 2012 by chungtoimuontudo), Ông Phan Nhật Nam mạnh dạn đưa ra nhận định: “Dân tộc Việt Nam, ngoài những điểm ưu việt ghê gớm mà các dân tộc khác trên thế giới không có, còn có những khuyết điểm, hay nói huỵch toẹt ra là những thói xấu, mà các dân tộc kia không thể nào sánh nổi cho dù họ có cố gắng học hỏi hay bắt chước chúng ta cách mấy đi nữa. Những thói xấu này giải thích tại sao người Việt Nam mà chúng ta vẫn luôn luôn tự hào là thông minh xuất chúng đến như vậy mà bây giờ lại trở nên một trong những dân tộc lụn bại, trầm luân nhứt thế giới, tính cho đến cuối thiên niên kỷ này. Những thói xấu của người mình thiệt ra khá nhiều, nhiều hơn mức bình thường. Người viết bài này chỉ gạn lọc và trình bày một số tính tiêu biểu đã gián tiếp hay trực tiếp đóng góp vào tình trạng đất nước Việt Nam ngày càng xơ xác, tiêu điều, các cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại ngày càng tiếp tục chia rẽ, phân hoá tưởng như không bao giờ hàn gắn được”.
    Rồi trước khi phân tích, chứng minh, tác giả nêu ra một loạt những thói xấu ông cho là tiêu biểu: không tôn trọng sự thực và lẽ phải; khoe khoang và kiêu ngạo; cố chấp và ngoan cố; độc tôn; kỳ thị; tàn ác; thiếu cao thượng và ưa chơi gác; phe đảng; thiển cận; ganh ghét; thích làm vua làm chúa; không công tâm; không tôn trọng luật lệ; cướp công của người khác; ưa nịnh bợ, tâng bốc; thích ăn hối lộ; tham lam; không tôn trọng nguyên tắc và giờ giấc; không tuân giữ các cam kết…
    Căn cứ vào những ý kiến có được từ một số diễn đàn “xét tật mình”/ “thói hư tật xấu người Việt” do các báoTuổi Trẻ, Tiền Phong (online) và vài trang mạng xã hội khác thực hiện trong khoảng cuối tháng 3 đầu tháng 4.2014 (sau vụ cô tiếp viên hàng không xách đồ ăn cắp ở Nhật), chúng tôi xin phép được lượm lặt để bổ sung vào hai bảng danh mục nêu trên, về đủ loại thói hư tật xấu/ căn bệnh tư tưởng của người Việt chúng ta hiện nay (tên gọi những thói hư tật xấu có đánh dấu hoa thị * bên trên là do chúng tôi ghi nhận thêm). Có thể kể với sự phân loại tương đối như sau:
    Thói xấu thuộc hành vi cá nhân: Đua đòi (ai cũng muốn sắm xe máy, điện thoại di động…)*; Thích người này hát để người khác khen hay, cùng nhau vỗ tay khen thưởng; Mê cờ bạc (đánh bạc, chơi số đề, cá độ bóng đá…)*; Thói hiếu kỳ, bàng quan (“xúm đông, xúm đỏ” mỗi khi có tai nạn giao thông, đám đông hiếu kỳ bu xem…); Bàn tán chuyện ngoài đường chẳng dính đến mình; Tò mò, thích kể chuyện đời tư người khác*; Tật ngồi lê đôi mách*; Mừng trên sự thất bại của người khác*; Thích công kích người khác theo kiểu nhạo báng chua cay, châm chích rẻ tiền*; Nhặt được của rơi không trả*; Lời lẽ xúc phạm thiếu văn hóa trong hoạt động nghiên cứu (như gọi vua Gia Long là “y” là “hắn”, gọi phe đối nghịch với mình là thằng này bọn nọ…)*; Khiêm tốn quá mức; Nói về người khác nhiều mà ít suy nghĩ về chính bản thân mình; Quan cách, khách sáo; Tính ghen ghét, tùy tiện; A dua, tát nước theo mưa; Láu cá (kiểu Trạng Quỳnh…); Không muốn ai hơn mình (cái gì cũng muốn phải hơn người khác, người này mở nhạc thì người khác phải mở to hơn…); Ghét người giàu*; Nói xấu sau lưng người khác*; Háo danh (thích được tuyên dương, nhận giấy khen, bằng khen…)*; Hiếu chiến, hiếu thắng vì những lý do tự ái, lặt vặt, đánh mất đại cục; Hay cãi vã; Chửi thề (kể cả học sinh nữ…)*; Dốt hay nói chữ*; Tốt khoe xấu che; Dối trá; Đâm bị thóc thọc bị gạo (Đòn xóc hai đầu)*; Nói đâm vào họng kẻ khác*; Sĩ diện không đúng chỗ (sĩ diện hão); Tham lam nhỏ mọn vô lối (tranh giành nhau từng tấc đất…)*; Tài khôn (khôn vặt, ưa tỏ ra mình giỏi)*; Lúng túng, không tự nhiên khi giao tiếp; Hay cậy thế nhờ vả họ hàng và quan chức; Nói nước đôi lập lờ không rõ ràng*; Dễ thỏa mãn nên tâm lý hưởng thụ còn nặng; Xởi lởi, chiều khách, song không bền; Hoang phí vì những mục tiêu vô bổ (sĩ diện, khoe khoang, thích hơn đời); Mất đoàn kết, tương thân, tương ái khi có điều kiện sống tốt hơn, giàu có hơn; Không tiết kiệm hay tâm lý thích tiêu xài phung phí; Thích hưởng thụ mà không chịu trả phí (thích xài mọi thứ nhưng không muốn mất tiền, sử dụng điện thoại “chùa” nơi công sở…); Thói giả dối hay căn bệnh “sống hai cuộc sống”…
    Thói xấu trong sinh hoạt: Quá coi trọng chuyện ăn uống (thôi nôi, sinh nhật, mừng thi đỗ, mừng có việc làm, mừng trúng thầu dự án, mừng mua xe mới nhà mới…); Ngồi các kiểu ở chỗ đông người; Lãng phí thời gian (ngồi lê đôi mách, nhậu nhẹt quá mức không biết tiết kiệm thời giờ vàng bạc); “Ăn nhanh, đi chậm, hay cười/ Thích “chơi đồ cổ” (mua đồ cũ) là người Việt Nam”; Cười nói to, ồn ào nơi công cộng; Thích tiếng động (kèn trống, đốt pháo…)*; Khạc nhổ bừa bãi; Không có phong thái lịch sự khi giao tiếp (ít biết nói “cám ơn, xin lỗi, vui lòng…”); Phóng uế, tiểu tiện bừa bãi (đái bậy ngoài đường); Ăn uống/ ăn ở mất vệ sinh (chế biến thực phẩm, cầu tiêu trên sông…); Thích tiếng động (pháo, trống chiêng…)*; Xả rác tùy tiện (xả rác vô tội vạ, vô tư xả rác, đổ nước bẩn ra đường…)…
    Thói xấu trong ứng xử với cộng đồng: Đấu đá nghi kỵ lẫn nhau; Vô cảm (với nỗi khó khăn, cảnh khổ của người khác)*; Không quan tâm tới luật lệ giao thông (vượt đèn đỏ, đi ngược chiều, chạy cho kịp giờ, chạy xe bạt mạng…); Ý thức chấp hành kỷ luật kém; Tính tùy tiện vô tổ chức (tự do vô tội vạ); Ý thức cộng đồng kém (quảng cáo cột điện nhiều vô kể…); Ít chịu nhường nhịn (không cần xếp hàng gì cả, cố giành phần ưu tiên, chen lấn xô đẩy, giành giật, không biết nhường đường); Lợi mình hại người (lấy gà bị chết dịch mà đem bán, độn đinh vào tôm xuất khẩu…); Nói thách*; Cân thiếu*; Không biết giữ gìn tài sản công; Ý thức kém về bảo vệ môi trường*; Giết mổ để ăn gây đau đớn cho động vật (đập đầu chó mèo, cắt cổ vịt…)*…
    Thói xấu trong lề lối làm việc: Giải quyết vấn đề theo cảm tính chủ quan; Tham lợi nhỏ quên mất tai họa lớn; Chạy đua chỉ để phục vụ cho một sự kiện; Khúm núm với cấp trên, thượng đội hạ đạp; Làm việc gì cũng trước tạo mối “quan hệ” tốt; Tính cả nể và không công bằng; Thích ganh đua và chạy theo bệnh thành tích; Cái tôi đặt lên trên tập thể; Không dám chịu trách nhiệm những việc mình làm; Tinh thần hợp tác làm việc theo team work còn hạn chế; Giờ cao su (trễ giờ, trễ hẹn); Khi đi công tác, người Việt rất nặng nề chuyện mua bán, quà cáp cho người nhà và đồng nghiệp; Không có thói quen truyền đạt những thông tin cần thiết cho những người khác sau khi kết thúc công việc nào đó…
    Thói xấu trong học tập, giáo dục-thi cử: Thi không trung thực (quay cóp, sử dụng “phao”, mang tài liệu vào phòng thi…)*; Ai cũng muốn cho con vào đại học (coi thường ngành trung cấp/ cao đẳng chuyên môn)*; Học gạo nhưng kém thực hành; Ít khi học “đến đầu đến đũa” nên kiến thức không hệ thống, mất cơ bản…
    Tính cách chung ngăn cản sự tiến bộ (các mặt hạn chế): Hời hợt, không sâu sắc; Tự ti; Thích khen sợ chê; Trọng tình; Bảo thủ, cực đoan; Lãng phí; Không cơ bản, sống theo kiểu “lắp ghép”; Dĩ hòa vi quý; Nhu nhược, sợ quyền lực; Vừa thực tế, vừa mơ mộng, song lại không có ý thức nâng lên thành lý luận; Thiếu tự tin và óc phê phán; Tính rụt rè; Có tính chất đối phó, thiếu tầm tư duy dài hạn, chủ động; Không duy trì đến cùng (ít quan tâm đến sự hoàn thiện cuối cùng của sản phẩm); Óc vọng ngoại (sính dùng tiếng/ chữ nước ngoài, dùng hàng hiệu nước ngoài…)*; Bệnh hình thức; Thiếu trách nhiệm cá nhân, thừa trách nhiệm tập thể; Thiếu thực tế; Thiếu tính liên kết để tạo ra sức mạnh (cùng một việc, một người làm thì tốt, ba người làm thì kém, bảy người làm thì hỏng); Không biết mình xấu (có nhiều tật xấu, trong đó tật xấu nhất là… không ý thức được đó là những tật xấu, thấy xấu không sửa)…
    Trên đây, qua nhiều nguồn tổng hợp từ các diễn đàn truyền thông, có lẽ chúng ta đã liệt kê chưa hết nhưng gần hết những thói hư tật xấu/ tính xấu/ khuyết tật/ căn bệnh tinh thần… bao gồm các mặt hạn chế đủ loại của người Việt nói chung, hay người Việt thường dân. Tuy nhiên, sẽ là rất thiếu sót nếu chúng ta không tách riêng ra để kể thêm về những thói xấu/ khuyết tật đặc biệt của “người Việt công quyền” gồm hết thảy những cán bộ công nhân viên chức làm việc trong các cơ quan ban ngành đoàn thể thuộc Đảng, Nhà nước, cũng như trong các tổ chức kinh tế tập thể-quốc doanh, các tập đoàn kinh tế quốc doanh và tổng công ty…, vốn chịu sự chi phối cũng của chính các cơ quan ban ngành đoàn thể ấy. Bởi vì thói xấu người Việt nói chung (hay người Việt thường dân) không thể nào không ảnh hưởng hay phản chiếu trực tiếp vào cung cách, tác phong, thái độ làm việc của người Việt công quyền, bao gồm cả các nhà lãnh đạo kinh tế-chính trị-văn hóa-xã hội ở mọi cấp, bởi tất cả họ cũng đều “từ nhân dân mà ra”, chứ chẳng phải ai khác. Như thói gia trưởng chẳng hạn, khởi đầu từ gia đình, sau ảnh hưởng tới tác phong lãnh đạo của người cán bộ…

    Người Việt công quyền lại càng xấu xí.
    Kể về thói xấu/ khuyết tật đặc biệt của “người Việt công quyền” thì có lẽ số lượng không nhiều hơn so với của người Việt thường dân, nhưng thói xấu/ khuyết tật mà nằm trong số những kẻ có chức có quyền thì mức tác hại của chúng chắc chắn phải cao hơn. Đó chính là nguyên do tạo nên mọi thứ trì trệ làm cho đất nước phải bị kìm hãm lâu dài trong vòng chậm tiến. Hay nói một cách công bằng và chính xác hơn, cả hai hệ thói xấu/ khuyết tật nêu trên đã cộng hưởng lẫn nhau để phát huy tác dụng tiêu cực.
    Căn bệnh nặng nhất của người Việt công quyền là bệnh xơ cứng giáo điều cả về mặt tư tưởng lẫn hành động, khiến hầu hết những người làm việc trong bộ máy công quyền các cấp đều không dám công khai nói thẳng sự thật hay mở mũi đột phá khi cần thiết cho công việc vì luôn sợ bị chụp mũ về quan điểm lập trường, dẫn tới tình trạng ai cũng nhếch nhác rụt rè, giữ gìn ý tứ, từ đó triệt tiêu tất cả mọi sự thông minh và độc lập sáng tạo của cá nhân.
    Phương thức quyết định tập thể dẫn đến tình trạng vô trách nhiệm tập thể. Khi có sự vụ gì hư hỏng xảy ra thì người ta cứ đùn đẩy trách nhiệm cho nhau, rốt cuộc không có ai là người đứng ra chịu trách nhiệm cụ thể cả, hoặc chỉ chịu trách nhiệm dưới hình thức “xin lỗi”, rồi xử lý nội bộ cho qua.
    Kinh tế tập thể và nguyên tắc “quốc doanh chủ đạo” dẫn đến việc biến tài sản của chung thành “của chùa” mạnh ai nấy xà xẻo, từ đó cũng gây nên tình trạng vô trách nhiệm kiểu “nhiều sãi không ai đóng cửa chùa”, “cha chung không ai khóc”, vốn là gốc nguồn căn bản của tệ nạn vun quén cá nhân biểu hiện dưới hình thức ăn cắp của công, tham ô lãng phí, tham nhũng hối lộ ngày càng tăng và vô phương cứu chữa.
    Bộ máy hành chính công quyền để quản lý xã hội hoạt động kém hiệu quả, trong điều kiện việc thực thi luật pháp thiếu minh bạch, đã gây nên quốc nạn tham nhũng gồm cả tham nhũng lớn lẫn tham nhũng vặt.Tham nhũng lớn liên quan số tiền hoặc tài sản trị giá hàng chục/ hàng trăm tỉ đồng, thường do các nhóm quan chức đặc quyền tương đối lớn câu kết với nhau; tham nhũng vặt phổ biến tại mọi tỉnh thành trên cả nước làm cho cả dân tộc hèn đi, được thực hiện dưới hình thức “lót tay”, “phong bì”, “bồi dưỡng”…, chủ yếu diễn ra trong lĩnh vực hành chính, đặc biệt với cơ chế hành chính “xin-cho”, khi người dân có những việc cần xin phải đụng tới thủ tục, như xin việc làm ở cơ quan nhà nước, “xin” khám-chữa bệnh ở bệnh viện công, xin nhập/ chuyển hộ khẩu, xin giấy khai sinh/ khai tử, xin giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, xin giấy phép xây dựng, xin đi học…
    Ngoài những thói xấu/ khuyết tật/ chứng bệnh nặng nêu trên, ở “người Việt công quyền”, còn có nhiều thứ đáng kể khác, rất phổ biến, tuy có phần ít “căn bản” hơn đôi chút nhưng tác hại của chúng hội tụ lại cũng vô cùng to lớn. Có thể kể ra hàng loạt: Thói giữ bí mật (không công khai nói ra cho dân biết, che giấu những sự thật không tốt); Chủ nghĩa lý lịch-thành phần; Bổ nhiệm nhân sự theo quan hệ người thân (họ hàng, bạn bè, “một người làm quan cả họ được nhờ”…); Bệnh sùng bái cá nhân; Óc gia trưởng; Bệnh tham quyền cố vị; Không có văn hóa từ chức; Sợ tới tuổi về hưu; Tha hóa quyền lực (dân tốt khi có chức quyền trở thành quan xấu…); Bệnh kết bè kéo cánh (óc bè phái/ phe đảng); Thói nịnh trên nạt dưới; Phê bình tố cáo kẻ vạch nhau chuyện tủn mủn để tranh giành quyền lực/ quyền lợi (moi móc đời tư để hạ bệ nhau…); Óc cục bộ địa phương; Tư túi/ thu vén cá nhân; Sống giả dối hai mặt (ở cơ quan nói khác, về nhà nói khác…); Sử dụng bằng dỏm bằng giả; Bám sống theo cái nôi cơ quan nhà nước; Bệnh quan liêu hình thức; Thói quan liêu cửa quyền; Trấn áp dân chủ (không tôn trọng quyền tự do ngôn luận, bài trừ “ý kiến khác”…); Đì kẻ có tài hoặc khác với mình về quan điểm; Can thiệp vào hoạt động tư pháp (chỉ đạo xét xử, gởi gắm…); Sử dụng nhiều thủ đoạn đôi khi cả với dân; Bao che, câu kết kiểu phủ huyện bênh nhau; Nghi kỵ, rình rập, vạch lỗi của nhau trong quan hệ công tác; Hô khẩu hiệu suông; Hội họp triền miên; Báo cáo láo; Bệnh thành tích; Xử lý nội bộ (không xử phạt dựa trên luật pháp); Ngụy biện (ưa dùng những cụm từ như “căn bản tốt”, “hoàn thành căn bản”, “nơi này nơi khác vẫn còn không ít khuyết điểm”, “một số không nhỏ”…); Máu xôi thịt; Hám tổ chức những ngày lễ kỷ niệm và ăn theo cuộc lễ; Hám danh hão; Hám bằng khen, huân chương và các loại danh hiệu (thường xuyên tổ chức những cuộc thi đua khen thưởng); Sử dụng công quỹ bừa bãi sai mục đích; Thi hành công vụ/ giải quyết công việc trên bàn nhậu; Nhậu nhẹt trong giờ làm việc; Đãi đằng cấp trên (để mua chuộc tình cảm, vận động sự ủng hộ, giúp đỡ…); Quà cáp cho cấp trên (đặc biệt trong những ngày lễ tết)…
    (còn tiếp)
  • Nhận xét

    Bài đăng phổ biến từ blog này

    Xứ Sở Hận Thù

    Tại sao cả thế giới phải dõi theo Cục dự trữ liên bang Mỹ ngày hôm nay?