Lược sử hình thành Hiến pháp Hoa Kỳ

Theo Dân Luận

Trương Tự Minh

  Giữa thế kỷ 18, đế chế Anh Quốc đã mở rộng bờ cõi đến dải đất dọc theo bờ biển phía Đông của Bắc Mỹ. Ngoài số ít thổ dân bản địa châu Mỹ, nước Mỹ thời kỳ này, gồm 13 thuộc địa mà sau này trở thành 13 tiểu bang đầu tiên, chủ yếu gồm người châu Âu di dân sang định cư và nô lệ da đen. Nhờ chính sách thả lỏng từ nước Anh mẫu quốc, 13 thuộc địa được phép thành lập các chính quyền của riêng mình với nghị viện do dân địa phương bầu ra để biểu quyết về thuế và làm luật.
Năm 1765, Quốc hội Anh thông qua Đạo luật Tem (Stamp Act), theo đó áp đặt một loại thuế mới lên vùng thuộc địa Bắc Mỹ mà không thông qua các nghị viện thuộc địa. Căng thẳng bắt đầu leo thang giữa 13 thuộc địa và mẫu quốc khi những người dân định cư từ chối đóng thuế với lý do Quốc hội Anh không được quyền đánh thuế dân thuộc địa khi mà họ không có đại diện ở Quốc hội. Đến tháng 4 năm 1775, xung đột vũ trang nổ ra giữa nhân dân thuộc địa và quân đội Anh, mở đầu cho Cách mạng Mỹ – cuộc chiến giành độc lập từ Anh Quốc kéo dài trong 9 năm của người dân thuộc địa. Ngày 4 tháng 7 năm 1776, 13 thuộc địa tuyên bố độc lập bằng một văn bản mà ngày nay được xem là Tuyên ngôn Độc lập (Declaration of Independence) của nước Mỹ.
Hiến chương Liên hợp của 13 bang đầu tiên

Một con tem phát hành tại bang Pennsylvania năm 1977 để kỷ niệm 200 năm ngày bản dự thảo cuối cùng của Các Điều khoản Liên hợp bang. Ảnh: Wikipedia
Sau khi tuyên bố độc lập, các thuộc địa lập thành nên liên minh các tiểu bang, được gọi là Liên hợp bang (Confederation). Năm 1781, các bang cùng thông qua Các Điều khoản Liên hợp bang, hay Hiến chương Liên hợp bang (Articles of Confederation), được xem là hiến pháp đầu tiên của Hoa Kỳ. Theo quy định của Hiến chương, chính quyền quốc gia chỉ có duy nhất một cơ quan là Quốc hội (Congress of the Confederation) với chức năng lập pháp. Hiến chương cũng cho phép Quốc hội quyết định các vấn đề đối ngoại, tuyên bố chiến tranh và thiết lập quân đội. Tuy nhiên, vì mỗi bang vẫn giữ quyền tự quyết (sovereignty) trong phạm vi lãnh thổ của mình nên trên thực tế Quốc hội không thể bắt buộc bất kỳ bang nào cung cấp quân lực hay khí tài. Bên cạnh đó, Quốc hội phải dựa vào các bang để có nguồn tài chính cho các hoạt động của mình, nhưng lại không thể áp dụng chế tài khi một bang nào đó từ chối đóng góp vào ngân sách liên hợp bang.
Hội nghị Lập hiến
Sau chiến thắng của Cách mạng Mỹ năm 1783, bất ổn từ mối đe dọa ngoại bang nhường chỗ cho những bất ổn nội tại từ mối liên kết lỏng lẻo giữa các bang và một nhà nước liên hợp bang với thực quyền hạn chế. Lúc này một chính quyền trung ương mạnh mẽ hơn là điều cần thiết để duy trì một quốc gia thống nhất và đảm bảo ổn định. Vì vậy, vào ngày 25/5/1787, tại tòa nhà Nghị viện bang Pennsylvania ở Philadelphia, nơi Tuyên ngôn Độc lập từng được các tiểu bang thông qua 11 năm trước đó, Hội nghị Lập hiến (Constitutional Convention) đã khai mạc với 55 đại diện tham dự đến từ các bang. George Washington lúc này được tôn vinh là người hùng quốc gia sau khi lãnh đạo Quân đội Liên hợp bang đi đến thắng lợi trong cuộc chiến giành độc lập, nên ông hiển nhiên được bầu làm Chủ tịch Hội nghị với số phiếu tuyệt đối.
Một điểm đáng lưu ý là Hội nghị được tiến hành trong những buổi họp kín, công chúng hay những người đưa tin không được phép vào dự khán. Điều này được giải thích với lý do nhằm tránh áp lực và sự chi phối từ dư luận. Tuy nhiên, dân biểu của bang Virginia – James Madison – người sau này trở thành tổng thống thứ 4 của Mỹ, đã ghi lại chi tiết những diễn biến xảy ra trong thời gian Hội nghị.
Ban đầu, các đại diện tham dự được giao nhiệm vụ sửa đổi Hiến chương Liên hợp bang. Nhưng Hội nghị Lập hiến đã nhanh chóng chuyển sang hướng bàn luận để đưa ra một hiến pháp hoàn toàn mới cùng hình thức tổ chức nhà nước khác. Mùa hè năm 1787 đã rất nóng với những tranh luận và bàn cãi sôi nổi, có lúc lên đến gay gắt tưởng chừng sẽ giải tán Hội nghị. Một trong những tranh cãi nổi cộm là vấn đề đại diện của mỗi bang ở Quốc hội (state representation). Đại biểu tham dự Hội nghị đến từ các bang lớn đề nghị cách xác định số lượng dân biểu (representative) cho mỗi bang dựa trên tỷ lệ dân số, theo đó bang có số dân càng đông thì sẽ có càng nhiều dân biểu. Với cách tính như vậy rõ ràng tiểu bang với dân số ít sẽ chịu thiệt thòi, do đó các bang nhỏ đã yêu cầu phương án mỗi bang đều có số dân biểu bằng nhau.
Quốc hội lưỡng viện và Tam quyền phân lập
Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi Thỏa hiệp Lớn, hay còn gọi là Thỏa hiệp Connecticut (Connecticut Compromise) được các bên ưng thuận. Thỏa hiệp đưa ra giải pháp một Quốc hội lưỡng viện (bicameral legislature) với đại diện theo tỷ lệ ở Hạ viện (House of Representatives) và đại diện ngang nhau ở Thượng viện (Senate). Sở dĩ Hạ viện được chọn theo cách tính đại diện dựa trên tỷ lệ dân số vì viện này được xem là gần gũi hơn với người dân, do đó cần phản ánh mong muốn của số đông dân chúng theo nguyên tắc đa số. Cũng vì lý do này nên Hạ viện còn được quyền khởi xướng mọi đạo luật liên quan đến nguồn thu và ngân sách liên bang.
Cùng với hình thức tổ chức quốc hội lưỡng viện, sau cùng Hội nghị Lập hiến cũng thống nhất mô hình chính quyền gồm ba nhánh quyền lực nhà nước (branch of government): lập pháp (legislature), hành pháp (executive) và tư pháp (judiciary). Giữa ba nhánh này là quan hệ đối ứng dựa trên nguyên tắc kiểm soát và đối trọng (checks and balances) thông qua các chế định đảm bảo không một bên nào có quyền lực vượt trội hơn nhằm ngăn tình trạng lạm quyền. Cũng xuất phát từ nguyên tắc kiểm soát và đối trọng, Hội nghị xác định phạm vi thẩm quyền và trách nhiệm của mỗi nhánh cơ quan nhà nước phải được quy định rõ ràng, cụ thể.
Đến tháng 9/1787, Ủy ban soạn thảo Hiến pháp gồm 5 thành viên (trong đó có James Madison) đã hoàn thành phiên bản cuối cùng của Hiến pháp Mỹ hiện tại gồm 4200 chữ. Hội nghị Lập hiến kết thúc khi có 39 trên tổng số 55 đại biểu tham dự ký tên đồng ý bản dự thảo hiến pháp. George Washington là người đã đặt bút ký đầu tiên.
Luận cương Thể chế Liên bang
Tuy nhiên, để Hiến pháp được thông qua trên toàn nước Mỹ, cần có ít nhất 9 trên 13 bang phê chuẩn dự thảo. Với dư âm từ những bất đồng tại Hội nghị Lập hiến, người dân Mỹ vẫn còn nhiều chia rẽ trong quan điểm liên quan đến các vấn đề như quyền tự trị của mỗi bang và nguy cơ chính quyền trung ương với quyền lực tuyệt đối sẽ nuốt chửng các bang nhỏ.
Trong nỗ lực tìm kiếm sự ủng hộ từ công chúng đối với dự thảo Hiến pháp, James Madison cùng Alexander Hamilton và John Jay đã lập nên một nhóm làm việc với bút danh Publius để viết một loạt bài nhằm giải thích chi tiết mô hình nhà nước theo Hiến pháp mới và tính hiệu quả của nó. Tập hợp gồm 85 bài chính luận, gọi chung là Luận cương Thể chế Liên bang (The Federalist/The Federalist Papers) được đăng trên nhiều tờ báo khắp các tiểu bang từ tháng 10/1787 đến tháng 5/1788.

James Madison
Những nỗ lực của nhóm Publius đã mang lại kết quả. Tháng 12/1787, 5 tiểu bang Delaware, Pennsylvania, New Jersey, Georgia và Connecticut lần lượt thông qua bản Hiến pháp mới. Tuy nhiên, Massachusetts cùng các bang khác vẫn tiếp tục phản đối dự thảo vì cho rằng Hiến pháp cần trao quyền tự quyết cho tiểu bang trong những vấn đề địa phương khi chúng không xung đột với thẩm quyền liên bang, và quan trọng hơn, Hiến pháp cần ghi nhận và bảo vệ các quyền chính trị cơ bản của công dân.
10 Tu Chính Án đầu tiên – Tuyên ngôn Nhân quyền
Đến tháng 2 năm 1788, Massachusetts và các bang còn lại đồng ý phê chuẩn Hiến pháp mới sau thỏa thuận cam kết rằng yêu cầu của những bang này sẽ được nhanh chóng bổ sung vào đề xuất sửa đổi Hiến pháp sau khi nó được thông qua. Nhờ vậy có thêm 3 tiểu bang gia nhập danh sách phê chuẩn gồm Massachusetts, Maryland và Nam Carolina.
Ngày 21/6/1788, New Hampshire trở thành bang thứ 9 thông qua Hiến pháp, mở đường cho guồng máy nhà nước theo Hiến pháp mới chính thức vận hành vào ngày 4/3/1789. Ngày 30/4/1789, George Washington tuyên thệ trở thành vị tổng thống đầu tiên của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.
Cũng trong năm 1789, James Madison lúc này với cương vị là một dân biểu của Hạ viện vừa mới thành lập đã đề xuất 19 tu chính án (amendment) cho Hiến pháp theo như thỏa thuận trước đó. Ngày 25/9 cùng năm, cả hai viện của Quốc hội Mỹ thông qua 12 trong số các tu chính án đề xuất trước khi chuyển đến các tiểu bang xem xét. Ngày 10/12/1791, 10 trên 12 tu chính án đề xuất được các bang phê chuẩn để chính thức trở thành một phần của Hiến pháp.
Mười tu chính án này, về sau thường được gọi chung là Tuyên ngôn Nhân quyền (Bill of Rights), ghi nhận những đảm bảo cơ bản của nhà nước đối với công dân như tự do ngôn luận, tôn giáo và báo chí; quyền được sử dụng và cất giữ vũ khí; quyền được biểu tình ôn hòa; quyền được bảo vệ khỏi việc khám xét và tịch thu vô cớ; quyền được xét xử nhanh chóng và công khai bởi một tòa án độc lập.
Vì những đóng góp và dấu ấn đậm nét trong quá trình soạn thảo cũng như thông qua Hiến pháp, James Madison đã đi vào lịch sử Hoa Kỳ với tên gọi trìu mến mà người Mỹ dành cho ông: “Father of the Constitution” – vị Cha đẻ của Hiến pháp nước này.
(Tổng hợp và lược thuật từ cuốn ‘Legal Terminology Explained’ của tác giả Edward Nolfi)
Sapphire gửi hôm Thứ Năm, 27/11/2014

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Tại sao cả thế giới phải dõi theo Cục dự trữ liên bang Mỹ ngày hôm nay?

Xứ Sở Hận Thù

Một nền tư pháp tùy tiện