Tập San Tân Ðại Việt – Số 6 – 2016

Tập San Tân Ðại Việt – Số 6 – 2016
Mục Lục
Chánh trị, Kinh tế
Bs Mã Xái Kỷ niệm Ngày Quân Lực 19 tháng 06…                                        
Trương Sĩ Lương : Nhân ngày Quân Lực VNCH                      
Phạm Phong Dinh : Ý nghĩa ngày Quân Lực Việt Nam Cộng hòa  
Phạm Phong Dinh : Tướng Lê Nguyên Vỹ lưu tiếng ngàn thu 
Lê Minh Nguyên : Tưởng Niệm Nhà Chí Sĩ Nguyễn Văn Hoàng 
Đằng Phương : Thơ Điếu Một Môn Sinh 
Vĩnh Liêm : Ngày Tưởng Nhớ Các Anh Hùng Liệt Sĩ Việt Nam 
Gareth Evans : Các quốc gia cần tuân thủ luật chơi ở châu Á
Tài liệu tham khảo
GS Nguyễn Ngọc HuyDân Tộc Sinh Tồn 
Nguyễn văn Trần : Anh Hồ Chí Minh
Mai Thanh Truyết :Ngày Môi Trường Thế Giới​ 2016:        
Trọng Đạt : Lê Duẩn và cuộc chiến tranh Việt Nam (tiếp theo)
Thơ, Văn, Bình luận, Cảm tưởng
Nguyễn thị Cỏ May : Chứng bịnh xã hội thâm căn của Pháp 
Mai Thanh Truyết : Chuyện dài Tôm Cá và Môi trường … Việt Nam
Nguyễn Dư  : Ai ơi bưng bát cơm đầy…
Nguyễn thị Cỏ May : Lịch sử không thể quên                    
Trần Trung Đạo : Niềm đau Madrid, nỗi nhớ Sài Gòn          

Kỷ niệm Ngày Quân Lực 19 tháng 06 Đồng bào hải ngoại cùng tập thể cựu quân nhơn VNCH yểm trợ công cuộc đấu tranh của đồng bào quốc nội
cho sự Sống Còn của Dân Tộc – Bác sĩ Mã Xái
Ngày Quân lực 19 tháng Sáu đánh dấu môt kỷ niệm khó quên của toàn dân Miền Nam: nhớ đến công lao của Quân Lực VNCH được nhơn dân trao cho trọng trách quản trị và bảo vệ đất nước, trong  bối cảnh Miền Nam vừa chiến đấu tự vệ trước tham vọng xâm lăng của Cộng Sản Hà Nội, vừa quyết tâm xây dựng một Việt Nam tự do, dân chủ pháp trị, phú cường. 
Truyền thống 19-06 không chấm dứt sau 30 tháng Tư 1975, đồng bào hải ngoại bao gồm tập thể cựu quân cán chính VNCH hằng năm hướng về ngày này để tưởng nhớ, tri ơn và cầu nguyện cho đồng đội đã hy sanh trong chiến trận, để vinh danh và giúp đỡ những thương phế binh đang sống cuộc đời cơ cực trong chế độ phi nhân, độc ác, độc tài, toàn trị, và để khích lệ thế hệ tương lai tiếp tục nối gót cha, anh và theo gương tiền nhơn trong việc giữ gìn bờ cõi và phát huy truyền thống dân tộc.
Năm nay, chung quanh ngày Truyền thống 19 tháng 06, các tổ chức cựu quân nhơn VNCH và cộng đồng hải ngoại đặc biệt kêu gọi sự gia tăng yểm trợ phong trào đấu tranh của đồng bào quốc nội trước thảm trạng môi trường với “biến cố Cá chết” hằng loạt tại các ven biển Miền Trung, từ tháng Tư/2016; thêm vào đó tình hình chuyển biến sôi động khác thường trong khu vực Đông Nam Á, trong mối quan hệ căn thẳng Mỹ -Trung có tác động mạnh mẽ đến hiện tình Việt Nam và các quốc gia ASEAN đặc biệt trong vấn đề tranh chấp Biển Đông, trong bối cảnh Toà án Trọng tài Thường trực La Haye sắp đưa ra phán quyết về việc Phi Luật Tân kiện Trung Cộng (TC) về chủ quyền Đường Chín Đoạn mà các giới thạo tin tiên đoán sẽ có lợi cho Manila; rồi “cơn sốt Obama” trong chuyến công du (5/2016) Hà Nội – Sài Gòn trong định hướng  tương lai cho mối quan hệ đối tác toàn diện mới “giữa hai quốc gia trên nhiều thập niên tới “Rằng trăm năm cũng từ đây…”; thêm vào đó các Đối thoại Shangri-La (còn gọi Hội Nghị Thượng Đỉnh Á Châu) 6/2013 tại Singapore, Đối thoại Chiến lược và Kinh tế Mỹ-Trung 6/2016, ở Bắc Kinh và Hội nghị G7 5/2016 tại Nhựt Bổn; hồ sơ Biển Đông đã nổi bật tại trong các phiên họp nói lên sự bế tắc trong quan điểm khác biệt giữa Bắc Kinh và Hoa thạnh Đốn khi “La Haye“ sắp đưa ra phán quyết.
“Biến cố cá chết” là một thảm hoạ môi trường do hoá chất xả ra tai nhà máy thép Formosa, nhưng nay lan rộng dần ra biển khơi, đến tận Phi luât Tân cho thấy có bàn tay lông lá từ phương Bắc nhúng vào trong âm mưu thâm độc diệt chủng. “Dân chúng  biểu tình đòi Biển sạch”, “Dân cần chính phủ minh bạch” khắp nơi, cho đến hôm nay, ngày 12/6/2016 vẫn có cả ngàn người tuần hành, tọa kháng trong khu vực Quỳnh Lưu, Nghệ An. Nhơn dân muốn biết nguyên nhân, xét xử kẻ gây ra thảm hoạ, cần cứu giúp đang lâm vào cảnh khốn cùng. Vụ cá chết cũng lần tới quốc hội Hoa Kỳ. Có trên một trăm ngàn chữ ký đồng bào hải ngoại thỉnh nguyện TT Obama giúp nhà nước cộng sản Việt Nam tìm ra nguyên nhơn cá chết. Điều làm mọi người ngạc nhiên là Hà Nội đã từ chối sự giúp đỡ theo báo cáo của Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam. Những cuộc biểu tình ôn hoà, bất bạo đông của nhơn dân lại bị CSVN chụp mũ do “thế lực thù địch” bên ngoài xúi bảo, giựt dây, có những trường hơp đàn áp dã man, bắt bớ giam giữ. Đồng bào Việt Nam khắp các nơi trên thế giới (Hoa KỲ, Úc, Pháp, Canada) đồng hành xuống đường yểm trợ tinh thần tranh đấu của đồng bào quốc nội, và tiếp tục đấu tranh cho đến khi nào nhà nước minh bạch nói lên sự thật, tôn trọng công lý giải quyết cuộc khủng hoảng môi trường cho nhơn dân. Đã hơn hai tháng nay, chỉ có những giải thích ấm ớ, mâu thuẫn của viên chức nhà nước, thái độ im lặng của tổng bí thư Nguyễn phú Trọng khi thị sát Hà Tĩnh đưa tới nghi vấn mối duy trì thân thiện của CSVN với Bắc Kinh. Khi CSVN quyết định từ chối lời đề nghị giúp đỡ của Washington trong việc tìm kiếm nguyên nhân “Cá chết”, Hà Nội vẫn e làm phật lòng người đồng chí ý thức hệ phương Bắc, trong lúc Hoa Kỳ bằng những động thái cụ thể xây dựng lòng tin hoàn toàn thực hiện sâu rông quan hệ đối tác toàn diện mới, nếu không muốn nói là sẽ tiến tới quan hệ đối tác chiến lược trong tương lai, khi Obama cam kết với Nguyễn Phú Trọng Hoa Kỳ tôn trọng hệ thống chánh trị khác biệt của Hà Nội và “Hoa Kỳ không tìm cách áp đặt mô hình chánh phủ của chúng tôi lên Việt Nam”.
Sự thực, một số trong giới tinh hoa trí thức hay nội bộ lãnh đạo cộng sản, quan điểm bảo thủ duy trì chế độ độc tài toàn trị thân Trung vẫn còn khuynh loát so với nhóm chủ trương cải cách theo hướng “biến cải” để đảng cộng sản được sinh tồn trong thời đại hội nhập toàn cầu hoá, chứ không vì sự sống còn của đất nước. Liệu TT Obama có nắm được Hà Nội  như một đối tác tiềm năng cho chánh sách “Tái cân bằng”/Xoay trục về châu Á Thái Bình Dương? Ông đã thoả mãn Hà Nội trong việc dỡ bỏ hoàn toàn lịnh cấm vận võ khí sát thương, nằm trong quan hệ đối phó với xung đột Biển Đông, ông giúp Việt Nam vận hành nền kinh tế, thuận cho Hà Nôi vào TPP dù quốc này vẫn theo chủ nghĩa cộng sản và tiếp tục vi phạm nhơn quyền một cách trầm trọng, và bị Uỷ Hội Hoa Kỳ về Tự do Tôn giáo đề nghị đưa CSVN trở lại danh sách các “Quốc gia đáng quan tâm” (CPC). Đáng chú ý hơn, Hoa Kỳ đẩy mạnh chương trình văn hoá, xã hội nối kết nhơn dân hai nước qua Hiệp định khung về Chương trình Hoà bình (Peace Corps) và việc khai mở Đại học Fulbright, môt đại học có quy chế độc lập, phi lợi nhuận là một trung tâm  đào tạo cao cấp theo tiêu chuẩn quốc tế có lợi ich trong phát triển đất nước. Tuy nhiên việc bổ nhiệm cựu nghị sĩ Bob Kerrey vào chức vụ Chủ tich Hội đồng tín thác đã đưa tới hai luồng dư luận đối chọi nhau về quá khứ của ông Kerrey liên can tới vụ thảm sát Thạnh Phong trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Bà Tôn Nữ Thi Ninh quyết liệt phản đối sự bổ nhiệm ông Kerrey với thái độ hận thù về vụ thảm sát, mà bà quên nhắc lại tội ác của CSVN đối với nhơn dân trong vụ cải cách ruông đất Miền Bắc, vụ thảm sát Mậu Thân ở Huế và việc đày ải quân cán chính VNCH chết lần mòn trong rừng sâu nước độc, và bao trăm ngàn đồng bào Miền Nam mất mạng trong lòng đại dương trên đường trốn thoát khỏi chế độ bạo tàn cộng sản. Phải chăng bà lo sợ hiệu quả diễn biến hoà bình của cơ sở giáo dục nhân bản khai phóng của Đại Học Fulbright nên muốn thọc gậy bánh xe tiến hoá của thời đại dân chủ nhơn quyền, và chúng ta không biết phía sau động thái khiêu khích của bà, người dân muốn biết lịnh của ai cho gỡ bỏ lời tuyên bố của bí thư Sài Gòn, uỷ viên bộ chánh trị Đinh La Thăng, có tác động đặc biệt  đối với quan điểm tiêu cực của bà Ninh; ông nói “Vượt lên hận thù, chúng ta sẽ chỉ càng cho chúng ta thấy chúng ta mạnh mẽ và cao lớn về tâm vóc văn hoá”. Tranh chấp nội bộ cộng sản vẫn còn âm ỉ, sau đại hội đảng XII!
Động thái bành trướng bá quyền của TC trên Biển Đông, đã đẩy CSVN xích lại gần với Mỹ, nhưng Hà Nội cũng chưa dám thoát Trung. Ai cũng nhìn thấy cung cách tiếp đón lạnh nhạt của nhà nước Việt Nam đối với TT Obama, ngược lại, ông Obama cũng đã thố lộ sự xúc động trước cảnh chào đón nồng nhiệt và chân thành mà nhơn dân dành cho ông. 
Một xã hội khép kín, trong đó nhơn dân bị bịt mắt, bịt tai, bịt miệng mà mọi quyền căn bản của người dân bị tước đoạt, sự xuất hiện của Tổng thống Obama trước quần chúng, trên suốt lộ trình từ Bắc vào Nam, hai bên đường, trong quán bún chả, trong chùa, ông Obama với phong cách cởi mở, thân thiện, với sự tiếp đón nồng nhiệt người dân không ngại nhìn ông Obama như một thần tượng mà họ ước ao được nhìn tận mắt.(viện thăm dò Pew cho thấy 70-80% dân Viêt Nam muốn đi gần với Mỹ.) Trước quần chúng Ông thao thao bất tuyệt trong giảng giải về nhơn quyền, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tự do tín ngưỡng, quyền tự do lập hội, tự do hội họp, quyền biểu tình, như việc công dân có quyền thành lập xã hội dân sự để tập họp và tổ chức các hoạt động để giúp phần cải thiện cộng đồng và làm cho quốc gia đươc tốt hơn. Nhắc lại lời ông thường tuyên bố “Hoa kỳ không tìm kiếm việc áp đặt thể chế chánh phủ kiểu của mình lên Việt Nam”, nhưng ông vẫn tiếp tục lên tiếng “vì nhơn quyền là giá trị phổ quát được minh định trong Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhơn quyền. Những quyền đó cũng ược minh định trong Hiến Pháp Việt Nam”. Nhưng thực tế là những nhà hoạt động dân sự có hẹn để gặp tổng thống phần lớn đã bị ngăn chặn hay bị bắt giữ hoặc bị ngăn chận. Có hơn một trăm tù nhơn lương tâm hiện còn giam cầm, nhưng CSVN bảo ở nước CHXHCN không có tù chánh trị, mà chỉ có những tù do vi phạm pháp luật. “Pháp quyền XHCN“ có những định nghĩa riêng của họ về nhơn quyền, về tự do dân chủ, không thể dung hợp với xã hội văn minh nhơn loại, thương cho ông Obama muốn “nối vòng tay lớn” nên suốt hai nhiệm kỳ ông  thường nhắc nhở “Nhưng là một là người bạn của Việt Nam, cho phép tôi chia sẽ quan điểm của tôi- tại sao tôi tin tưởng các quốc gia sẽ thành công hơn khi những quyền phổ quát được đảm bảo”… Trách chi Đối thoại Nhân quyền Mỹ-Việt đã đến lần thứ 20 (21-04-2016) mà tình trạng nhơn quyền vẫn được đánh giá là tụt hậu, quan niệm khác biệt vẫn còn quá rộng. 
Tự do dân chủ, nhơn quyền chỉ có được bằng đấu tranh, đấu tranh cho chính mình, cho gia đình cho dân tộc, cho đất nước. Đấu tranh để tồn tại. Người chiến binh VNCH đáng tự hào, xứng đáng đươc vinh danh vì đã đem xương máu đổi lấy sự an bình cho đất nước. Chúng ta không quên đồng đội thương binh, gia đình liệt sĩ, thắp nén hương cho những đấng anh hùng vô danh. 
Ngày nay ở hải ngoại người cựu quân nhơn VNCH cùng đồng bào tị nạn cộng sản có trách nhiệm yểm trợ công cuộc đấu tranh của đồng bào quốc nội cho nhơn quyền cho dân chủ, và trước mắt là cho ”thảm trạng môi trường cá chết”. Một cuộc đấu tranh còn cam go trước bạo quyền công sản, trong bối cảnh chánh phủ Hoa kỳ mở rộng quan hệ đối tác toàn diện mới với nguỵ quyền cộng sản; nhưng chánh nghĩa phải thắng: “cộng sản không thể sửa chữa mà cần phải đào thải nó“ qua cuộc nổi dậy của toàn dân hay diễn biến hoà bình. Chúng ta chủ trương không hoà giải, không hoà hợp vói cộng sản.

Nhân ngày Quân Lực VNCH – Trương Sĩ Lương
41 năm sau, những người lính VNCH trẻ nhất — còn sống — bây giờ cũng đã 60. Họ vẫn còn đó, ở khắp hải ngoại, “Ngược bắc xuôi nam, vẫn không tìm thấy bờ bến quê nhà”. Thế rồi họ phải hòa mình vào đời sống xã hội nơi các quốc gia tạm dung để xây dựng lại gia đình, nuôi dạy con cái nên người. Một ước mơ, một hy vọng lớn nhất trong cuộc đời còn lại của họ là được nhìn thấy quê hương không còn bóng dáng cộng sản vô thần đang tàn phá quê hương.
Họ vẫn còn đó, không có cơ hội ra đi, bất đắc dĩ phải ở lại trong nước, chấp nhận một chế độ bất nhân với những đòn thù của kẻ chiến thắng điên cuồng, đè nặng lên thể xác lẫn tinh thần họ. Trước những phong ba bão táp trùng lấp; trước những đắng cay nghiệt ngã trăm bề, nhưng họ vẫn chiến đấu để sinh tồn, chờ ngày bắt nhịp cầu với đoàn quân hải ngoại theo bước chân về, giành lại quê hương.
Nhưng 41 năm rồi qua, quê nhà vẫn xa tít mờ xa! Mỏi mòn chờ đợi, như đợi chờ một phép lạ, đợi chờ một minh quân, đợi chờ một hợp đoàn để họ có thể quay về dựng lại nhà, dựng lại người; hoặc ít nhất là một thay đổi nào đó xảy ra để họ cùng góp bàn tay chung, tạo thành một biển lửa, dù đã luống tuổi đời sau 41 chờ đợi!
Những người lính trẻ nhất — đã nằm xuống — bây giờ cũng đã 60. Họ đã ra đi vĩnh viễn… chắc chắn không mang theo hận thù. Đáng lẽ họ đã được an nghỉ ở một nghĩa trang quân đội nào đó trên quê hương miền Nam yêu dấu, với hàng chữ Tổ Quốc Ghi Ơn trên mộ bia. Thế nhưng, những kẻ chiến thắng đã trút thù hận một cách thô bạo lên nấm xương tàn bằng cách đào mồ cuốc mả. Người lính đã sống trong nỗi chết và chết cũng vẫn chưa yên! Chắc chắn hồn thiêng của họ đã quyện vào núi sông đất mẹ. Theo luật nhân quả, một ngày nào đó họ sẽ đội mồ đứng dậy đòi lại máu xương.
Giở chống sách cũ, tìm lại hình ảnh ngày xưa: những người lính trẻ ấy một thời đã phải xếp bút nghiên, lên đường theo tiếng gọi non sông. Họ có hận thù ai không? Chắc chắn là không! Nhưng bổn phận của họ là “ăn cây nào phải rào cây ấy”, thế thôi. Giặc đến nhà, làm trai không thể ngồi yên để chờ trói. Giặc đến nhà không thể ngồi đó để ăn chơi hưởng thụ. Thế rồi giặc cộng đã đến theo lệnh quan thầy Mác-Lê và họ đã chiến đấu đến hơi thở sau cùng, mặc dù đã bị những bàn tay lông lá quốc tế bán đứng vì quyền lợi dơ bẩn.
Quân Lực VNCH chưa bao giờ bại trận và cuộc chiến ấy vẫn chưa kết thúc. Chỉ có những kẻ hèn nhát mới quay đầu, làm tay sai cho địch. Chỉ có những người hám danh, hám lợi mới luồn cúi theo chân bọn đồ tể lòng lang dạ thú, hại nhà hại nước; chỉ có những tay làm chính trị non nớt, háo danh, suy luận nông cạn mới lọt vào bẫy sập của đám phản thùng mưu lược. Thời nào cũng có hạng người như thế! Thời nào cũng có những anh hùng và thời nào mà không có bọn Việt gian bán đứng anh em, bà con, bạn bè.
Nhân sinh mỗi người mỗi tính. Có người khi thấy đồng loại máu đổ thịt rơi là họ đau đớn như chính bản thân họ lâm nạn; có người thì dửng dưng bỏ đi không một chút bận tâm; có người khi thấy quê hương ngụp lặn trong đau khổ vì đại nạn cộng sản, họ đã quên đi đời sống riêng tư của mình để dấn thân vào đại cuộc, góp máu, góp xương cho tự do quê nhà; có người xem nhẹ vật chất, vì vật chất không thu hút được họ trước đại nghĩa, trước sự sinh tồn của quốc gia dân tộc; nhưng có rất nhiều người vật chất đã làm cho họ mờ lý trí, chấp nhận để đồng tiền sai khiến, phản lại anh em, phản lại đồng đội, nhận làm tay sai cho kẻ thù mà từ xưa tới nay vẫn không thiếu những loại người như họ.
Có thể theo thời gian và vì hoàn cảnh sống, họ không còn hăng say đấu tranh như buổi ban đầu trốn chạy cộng sản; có thể vì một trăm thứ lý do khác để họ không còn ở trong hàng ngũ của người tỵ nạn cộng sản. Thậm chí vì tư lợi, vì bản chất của họ đổi thay như trời đất đổi mùa. Họ có thể giao du, mua bán làm ăn với những kẻ một thời hành hạ xác thân họ, gia đình họ, bạn bè họ… Họ có thể làm bất cứ chuyện gì họ thích trên xứ tự do này: ăn chơi, dùng đồng tiền phi nghĩa ấy cho bản thân họ, cho gia đình họ; thâm chí ngay cả việc quay về nơi họ xuất phát để hưởng thụ trên nỗi đau triền miên của đất Mẹ cũng chẳng ai màng tới. Nghĩa là họ âm thầm rời khỏi hàng ngũ của những người Việt tỵ nạn cộng sản là được. Thà như vậy còn rõ ràng hơn là họ ở đây, nhởn nhơ, trà trộn, quấy phá trong tập thể của những người không cùng chiến tuyến, không cùng lý tưởng. Thà như vậy còn hơn là họ đội lốt dưới nhiều danh nghĩa khác nhau để đâm bị thóc, thọc bị gạo, xé lẻ hàng ngũ người Việt Quốc Gia với mục tiêu duy nhất: tuyên vận cho cộng sản.
Những tên du kích tuyên vận ấy đang mở cuộc tổng tấn công vào tập thể người Việt khắp hải ngoại, theo lệnh của quan thầy Bắc Bộ. Họ tấn công chúng ta bằng phương tiện nào? Súng AK, Súng cối, Hỏa tiễn 122 ly, Xe tăng, Đại pháo,… Thưa không, họ đang tấn công chúng ta bằng mặt trận tuyên vận, sử dụng văn nghệ, văn hóa, báo chí, truyền thông để vô hiệu hóa công cuộc đấu tranh đầy chính nghĩa của chúng ta. Mục tiêu của họ là gây hoang mang, tạo chia rẽ bằng những lý luận qua chiêu thức “nhân đạo tính” để ru ngủ tập thể người Việt ly hương vốn có quá nhiều cảm tính. Và họ chụp mũ chúng ta là đấu tranh quá khích. Đấu tranh cho quê hương sớm có tự do bằng những vận động công khai thì họ cho là quá khích! Vậy, nếu theo họ hoạt động trở cờ, chui rúc thì chắc chắn là không quá khích!!
Họ chính là những người đang sống chung quanh ta, nhởn nhơ trước mắt, lăng xăng vào những công tác cộng đồng, khi úp, khi mở mà chúng ta đã thấy, đã nghe, đã biết. Vậy đối sách của chúng ta là phải làm gì? Làm thế nào để nhận diện? Cấy người của cục tuyên vận cộng sản thật ra rất xảo quyệt, tinh vi. Nhưng không vì thế mà chúng ta không biết nhận diện. Một số, theo thời gian, đã lộ diện ở khắp nơi mà chúng ta đã biết. Trước nhất là không giao du, không liên lạc, không cần những phương tiện của họ. Bởi họ đã lộ diện, chúng ta không tiếp xúc, nhất định không tiếp xúc là xong. Họ dùng chiêu rỉ tai để phá hoại, chúng ta vô hiệu hóa, tẩy chay. Nơi nào họ có mặt, ta không đến, nơi nào ta có mặt mời họ ra…
Nhân ngày Kỷ Niệm QLVNCH, ngày tưởng niệm những chiến sĩ đã bỏ mình cho quê hương dân tộc, ngày vinh danh các chiến sĩ một thời cầm súng chiến đấu cho sự tự do của 17 triệu dân miền Nam, chúng ta không ai không có thân bằng quyến thuộc trong hàng ngũ của những người chiến sĩ ấy. Xin hãy thắp nén tâm hương gửi đến hồn thiêng của những người trai trẻ đã nằm xuống cho chúng ta được sống và được hít thở tự do như ngày hôm nay. Đồng thời xin tri ân những chiến sĩ đang sống và xin hãy thêm sức, thêm tinh thần cho họ bền vững, một lòng với đại cuộc giành lại quê hương.
 Tạm kết
Đã đến lúc những người cầm súng, một thời hy sinh cho chính nghĩa quốc gia, hãnh diện vì màu cờ sắc áo không thể để cho thành phần đâm sau lưng chiến sĩ tiếp tục chui rúc, quấy phá trong hàng ngũ của chúng ta nữa.
Đã đến lúc chúng ta phải đứng dậy, đứng thẳng, vạch mặt, tố cáo thành phần phá hoại này trước công luận. Chúng ta không bao giờ sợ cộng sản, sợ tay sai cộng sản, vì nơi này là hậu cứ an toàn nhất của chúng ta.
Đã đến lúc các anh chiến sĩ QLVNCH phải tỉnh thức, sáng suốt, nhận diện kỹ lưỡng, nắm chặt tay nhau đoàn kết để tránh những đòn bẫy do đám Việt gian tung ra nhằm phá vỡ hàng ngũ của chúng ta. Ngày nay vì tuổi tác của chúng ta đã cao, do đó hãy khuyến khích thế hệ con cháu phải giữ vững biên giới giữa Thiện và Ác, bởi tập đoàn CSVN đang cai trị 90 triệu đồng bào ruột thịt ở quê nhà, — bằng chính sách độc tài sắt máu, diệt chủng, “Hèn với giặc, Ác với dân”– chính là đám tay sai, nô lệ bán nước cho Tàu cộng.
Đã đến lúc chúng ta phải xây đắp niềm tin, trách nhiệm và ý thức trận chiến cam go, bảo vệ nòi giống Việt tộc cho thế hệ trẻ, giúp họ trưởng thành từ tư tưởng đến hành động để thay thế cha ông, tiếp tục sứ mạng chiến đấu cứu nước cho đến khi chế độ bạo tàn csvn sụp đổ. Đó chính là cơ hội ngăn chận đại họa xâm lăng của Hán tộc từ phương Bắc đang tràn xuống càng ngày càng quá rõ ràng.

Ý nghĩa ngày Quân Lực Việt Nam Cộng hòa – Phạm Phong Dinh
Ngày 20.7.1954 đánh dấu ngày quốc hận thứ nhất của dân tộc Việt Nam, sau khi cộng sản Bắc Việt cùng với thực dân Pháp ký kết Hiệp định Genève chia đôi đất nước, lấy vĩ tuyến thứ 17 chạy ngang con sông Bến Hải làm ranh giới Bắc Nam. Ðó cũng là ngày đánh dấu cuộc di cư từ bỏ chế độ cộng sản lần thứ nhất của người Việt với gần một triệu dân miền Bắc gồng gánh bồng bế nhau tìm đủ mọi cách để được đáp tàu vào vùng đất miền Nam tự do, nơi đó nước Việt Nam Cộng Hòa non trẻ đang chập chững những bước đầu tiên trong cộng đồng chính trị thế giới.
Giữa bối cảnh một nửa đất nước oằn oại rên siết trong gông cùm cộng sản, trong bóng đêm của dối trá và tội ác, một nửa nước còn lại vừa phải đối phó với quân cộng sản còn nằm mai phục trong các chiến khu cũ thời Pháp và đương đầu với những vấn đề ổn định nội bộ, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, danh xưng lúc đó là Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam, tiếp nhận di sản nghèo nàn và lạc hậu do phía quân đội Pháp hồi hương bàn giao lại, đảm nhận trọng trách nặng nề bảo quốc an dân. Ngày 1.7.1955 Bộ Tổng
Tham Mưu của Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam chính thức hình thành, đánh dấu ngày khai sinh một quân lực non trẻ mà đã dám chiến đấu chống lại cả một đại khối cộng sản quốc tế hung hãn tràn xuống từ phương Bắc. Tên tội đồ dân tộc, kẻ giết hàng triệu người mà miệng vẫn cười Hồ Chí Minh, một cán bộ cao cấp của cộng sản quốc tế, cúi đầu làm chó săn nhận vũ khí và thực hiện sách lược “Dùng người Việt giết người Việt” của quan thầy Nga Sô và Trung Cộng, vơ vét thanh thiếu niên miền Bắc đẩy vào miền Nam bắn dùng bọn thổ phỉ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam thực hiện sách lược “Dùng người Miền Nam giết người Miền Nam” tàn sát chính đồng bào ruột thịt của mình.
Dưới thời của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm của nền Ðệ Nhất Cộng Hòa, sau khi ông chính thức làm Tổng Thống sau cuộc Trưng Cầu Dân Ý 1955, Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam được cải danh thành Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, với xác quyết quân đội sẽ được phát triển và tối tân hóa thành một đạo quân mạnh để đập tan bất cứ một cuộc xâm lược nào từ phương Bắc. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong suốt lịch sử 20 năm chiến đấu bảo vệ tổ quốc, tuy có những lúc thăng trầm nghiêng ngửa, có những lúc thiệt hại nặng nề, nhưng những người chiến binh dũng cảm Việt Nam Cộng Hòa vẫn giữ vững ý chí chiến đấu, không chấp nhận chế độ cộng sản, quyết đánh cho đến hơi thở và giọt máu cuối cùng. Từ ngày 1.11.1963, sau khi một nhóm tướng lãnh đảo chánh lật đổ Tổng Thống Diệm, đất nước và quân đội Việt Nam Cộng Hòa bị suy yếu trầm trọng vì tình trạng chỉnh lý tranh giành quyền lực liên miên giữa các tướng lãnh. Cộng Sản Bắc Việt nương cơ hội này lăm le tràn xuống đánh dứt điểm miền Nam. Hồi tưởng lại hoàn cảnh đất nước thật đen tối trước ngày 19.6.1965, vận mệnh của nước Việt Nam Cộng Hòa như sợi chỉ mỏng manh treo nghìn cân trước làn sóng xâm nhập đã bắt đầu ồ ạt với hàng trăm ngàn quân chính qui Bắc Việt đã có mặt ở Miền Nam.
Về chính trị, tình hình đầy xáo trộn và bất ổn. Những cuộc xuống đường dưới sự khích động của những phần tử cộng sản nằm vùng và trà trộn liên miên xảy ra, mà hậu quả hiển nhiên và tức thì là sự rối loạn, khẩn trương của xã hội, dân chúng lúc nào cũng lo âu trước thời cuộc hỗn độn. Cộng sản nhân đó gia tăng những hoạt động tuyên truyền, phá hoại, lũng đoạn hàng ngũ những người Quốc Gia. Ở nông thôn thì Việt cộng gia tăng khủng bố dân chúng, bắt cóc, thủ tiêu và ám sát dã man những viên chức xã ấp tận tụy với chính nghĩa quốc gia, thậm chí những người dân vô tội dù chỉ tỏ chút ngần ngừ hay biểu lộ thái độ không hợp tác, ủng hộ, là đã có thể bị Việt cộng tuyên án tử hình và hạ sát. Bầu không khí sợ hãi, chết chóc bao trùm khắp miền nông thôn, nhất là ở những cùng xa xôi hẻo lánh mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chưa thể thiết lập nền an ninh vững chắc.
Về mặt quân sự, lợi dụng lúc giao thời, chính phủ dân sự Việt Nam Cộng Hòa không có khả năng tập họp được sức mạnh của quân đội, cộng sản liên tục cho binh đội xâm nhập Miền Nam, chuyển dạng thái chiến tranh xâm lược từ du kích chiến sang vận động chiến, mở những trận đánh lớn để thử thách sức mạnh và ý chí chiến đấu của quân dân Việt Nam Cộng Hòa, điễn hình là những trận đánh Bình Giả và Ðồng Xoài cuối năm 1964 và giữa năm 1965. Trong bối cảnh chính tình nhiễu nhương, quân đội không được lãnh đạo và chỉ huy thích đáng, đã đưa đến thiệt hại rất nặng cho quân ta trong hai trận đánh này, mà chỉ trông cậy vào trái tim nồng nàn tình đất nước tình đồng bào và chính thân xác của các anh, người chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mới có thể cắn răng ngăn chống được cơn sóng dữ cộng sản đã mấp mé gần ngưỡng cửa Sài Gòn.
Về mặt kinh tế, vì chiến tranh tàn phá, đất đai bị bỏ hoang, do đó mức sản xuất sút kém, đời sống dân chúng lệ thuộc vào ngoại viện. Một đất nước từng xuất cảng gạo mà phải nuốt nước mắt nhận những hạt gạo gọi là viện trợ của nước ngoài. Trong khi đó cộng sản luôn tìm cơ hội cắt đứt đường tiếp tế giữa nông thôn và thành thị, làm cho mức sinh hoạt của xã hội ngày càng đắt đỏ và rất khó kiểm soát, gian thương lộng hành trắng trợn. Người dân ở thành thị khốn khổ vì nạn vật giá gia tăng hàng ngày bao nhiêu, thì người dân ở nông thôn càng oằn nặng dưới sự khủng bố và bóc lột ghê rợn của cộng sản bấy nhiêu. Ðóng góp nuôi quân, thuế khóa nặng nề, dân công, sưu địch, con em bị bắt buộc cầm súng trong vùng cộng sản kiểm soát đã là nguyên nhân thúc đẩy đồng bào liều chết bỏ chạy ra vùng quốc gia để được quân đội bảo vệ và chính quyền giúp đỡ.


Hoàn cảnh bi đát của Việt Nam Cộng Hòa trước ngày 19.6.1965 là như vậy. Ðất nước đã bước đến mấp mé bên bờ vực thẳm, chỉ một bước nữa thôi, quân dân Miền Nam rất có thể sẽ nằm dưới sự thống trị của cộng sản Hà Nội. Nhưng những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không bao giờ cho phép điều đó xảy ra. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, một tập thể duy nhất có tổ chức chặt chẽ và tinh thần kỷ luật cao, không thể chần chờ trước cơn quốc biến, nên đã đứng ra nhận chịu trên vai trách nhiệm nặng nề cứu nguy đất nước và dân tộc. Cho đến gần giữa năm 1965, Hội Ðồng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã loại bỏ được những thế lực phân chia sức mạnh quân đội, cùng chia xẻ trách nhiệm lãnh đạo và điều hành guồng máy quốc gia. Nhưng để tỏ rõ thiện chí và quyết tâm kiến tạo nền dân chủ cho Miền Nam, ngày 5.5.1965, Hội Ðồng Quân Lực đã quyết định trao quyền lãnh đạo đấ nước lại cho chính phủ dân sự, cụ Phan Khắc Sửu được mời làm Quốc Trưởng, Bác sĩ Phan Huy Quát làm Thủ Tướng. Nhưng cũng chỉ hơn một tháng sau, ngày 11.6.1965, chính phủ dân sự do cụ Phan Khắc Sửu làm Quốc Trưởng nhận định rằng tình hình đất nước đã đến lúc lâm nguy nếu người quốc gia không mạnh mẽ hành động và tìm ra một con đường tức thời nào đó. Con đường đó, sau những cân nhắc, chính là sức mạnh của Quân Ðội. Chính phủ Phan Khắc Sửu quyết định trao trả quyền lãnh đạo đất nước lại cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bằng tuyên cáo chính thức như sau:
TUYÊN CÁO CỦA QUỐC TRƯỞNG CHỦ TỊCH HỘI ÐỒNG QUỐC GIA LẬP PHÁP VÀ THỦ TƯỚNG CHÁNH PHỦ VIỆT NAM CỘNG HÒA
Sau khi duyệt lại tình trạng ngày càng một khẩn trương của đất nước, sau khi đã xét lại và xác nhận rằng : những cơ cấu và thể chế Quốc Gia hiện tại không còn phù hợp với tình thế, sau khi đã hội ý cùng toàn thể tướng lãnh Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa tại Phủ Thủ Tướng ngày 11.6.1965, chúng tôi, Quốc Trưởng Việt Nam Cộng Hòa, Hội Ðồng Quốc Gia Lập Pháp, Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa đồng thanh quyết định long trọng trao trả lại cho Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa trách nhiệm và quyền hành lãnh đạo quốc gia đã được Hội Ðồng Quân Lực ủy thác cho chúng tôi chiếu theo Quyết Ðịnh số 8 ngày 5.5.1965, Tuyên Cáo số 7 ngày 5.5.1965, Quyết Ðịnh số 5 ngày 16.2.1965, Quyết Ðịnh số 6 ngày 17.2.1965 và Quyết Ðịnh số 4 ngày 16.2.1965.
Yêu cầu toàn thể đồng bào các giới không phân biệt giai tầng địa phương, đảng phái và tôn giáo, ủng hộ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong việc lãnh đạo toàn Quân và toàn Dân đúng theo tinh thần của Cách Mạng 1.11.1963.
Làm tại Sài Gòn ngày 11.6.1965
Phan Khắc Sửu
Quốc Trưởng Việt Nam Cộng Hòa
Phan Huy Quát
Thủ Tướng Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa
Phạm Xuân Chiểu
Chủ Tịch Hội Ðồng Quốc Gia Lập Pháp

Ngày 12.6.1965, trong một buổi họp quy tụ tất cả những tướng lãnh đang nắm những trọng trách trong Quân Ðội từ cấp Tổng Tham Mưu Trưởng, Tư Lệnh bốn Vùng Chiến Thuật cho đến các Tư Lệnh Quân Binh Chủng, Hội Ðồng Quân Lực đã đề cử Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu đảm nhận chức vụ Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia (tương đương Tổng Thống), Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ đảm nhận chức vụ Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (tương đương Thủ Tướng), thông qua quyết định như sau:

QUYẾT ÐỊNH
THÀNH LẬP ỦY BAN LÃNH ÐẠO QUỐC GIA
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
- Sau khi nghiên cứu Bản Tuyên Cáo Chung của Quốc Trưởng, Hội Ðồng Quốc Gia Lập Pháp và Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa ngày 11.6.1965 trao trả trách nhiệm và quyền hành lãnh đạo Quốc Gia cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
- Chiếu biên bản Ðại Hội Ðồng các Tướng Lãnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ngày 12.6.1965.
Các Tướng Lãnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Tư Lệnh các vùng chiến thuật và quân binh chủng đã quyết định:
Quyết Ðịnh:
Ðiều 1. Thành lập một ủy ban lãnh đạo của Quân Lực mệnh danh là Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia.
Ðiều 2. Thành phần của Ủy Ban nói trên gồm có : một Chủ Tịch, một Tổng Thơ Ký, một Ủy Viên phụ trách điều khiển Hành Pháp, Tổng Trưởng Quốc Phòng, Tổng Tham Mưu Trưởng, các Tư Lệnh Vùng Chiến Thuật, Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Ðô.
Ðiều 3. Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia thay mặt toàn thể Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa điều khiển Quốc Gia.
Ðiều 4. Hoàn toàn tín nhiệm và chỉ định:
A. Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia: Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu.
B. Tổng Thư Ký : Trung Tướng Phạm Xuân Chiểu.
C. Ủy Viên phụ trách điều khiển Hành Pháp: Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ.
Ðiều 5. Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia có nhiệm vụ thiết lập thể chế và các cơ cấu Quốc Gia cùng thành lập một Nội Các Chiến Tranh.
Sài Gòn, ngày 14 tháng 6 năm 1965
Toàn thể các Tướng Lãnh và Tư Lệnh Quân Binh Chủng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

Ðó là ngày đánh dấu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đứng lên gánh vác hai trách nhiệm lớn: bảo vệ nền tự do độc lập của Việt Nam Cộng Hòa, làm tiền đồn ngăn chống làn sóng cộng sản và xây dựng một đất nước lạc hậu nghèo khó vì chiến tranh triền miên với mục đích tiến lên thành một quốc gia phú cường, ngẫng cao đầu sánh vai với cộng đồng thế giới. Ngày 19.6.1965 thành phần Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia và Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương trong một buổi lễ ra mắt được tổ chức long trọng ở Thủ Ðô Sài Gòn, đã tuyên thệ trung thành với Tổ Quốc, nhận trách nhiệm lèo lái quốc gia và làm thành phần tiền phương của quân dân Việt Nam Cộng Hòa chỉ huy Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bảo vệ đất nước. Từ thời điểm đó, ngày 19.6 được đánh dấu như là một cái mốc lịch sử, một chương mới của cuộc chiến đấu chống đại khối cộng sản quốc tế của quân dân Miền Nam, mà Quân Lực Việt Nam Cộng hòa là thành phần gồng gánh trách nhiệm lãnh đạo đất nước, xây dựng nền độc lập, tự do và dân chủ, bình định những mầm móng nằm vùng bạo loạn, ở tiền tuyến thì chỉ huy quân đội ngăn chống cơn sóng xâm lăng cuồng sát của đạo quân hiếu chiến cộng sản Bắc Việt. Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu sau khi đắc cử Tổng Thống đầu tiên của nền Ðệ Nhị Cộng Hòa trong tháng 11.1967 vẫn tiếp tục cho tổ chức trọng thể lễ kỷ niệm hàng năm ngày Quân Lực 19.6 với những cuộc diễn binh của tất cả các đơn vị và quân binh chủng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, để biểu dương sức mạnh và ý chí quật khởi của dân tộc Việt Nam chống xâm lược cộng sản từ phương Bắc. (Ngày 19.1.2004, cựu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, người từng một thời lái máy bay oanh tạc những cơ sở tàng trữ vật chất dành cho cuộc chiến tranh xâm lược Miền Nam ở Miền Bắc, người từng tuyên bố tử thủ Miền Nam trong những ngày cuối cùng của tháng 4.1975 ở Thủ Ðô Sài Gòn, đã tự động lìa bỏ hàng ngũ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nộp đơn xin cộng sản Hà Nội khoan hồng cho ông ta được phép về Việt Nam. Nguyễn Cao Kỳ đã nhục nhã quỳ gối viết những hàng chữ ô uế trong lá đơn xin chiếu khán vào Việt Nam, thể theo những điều kiện của cộng sản Hà Nội. Kỳ đã kính cẩn và khép nép ký cái tên tầm thường của mình dưới huy hiệu cờ máu của cộng sản, mặc nhiên chối bỏ cái quá khứ oanh liệt được làm người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Từ giờ phút đó, Nguyễn Cao Kỳ, con người một thời từng thốt lời ngạo nghễ với giặc cộng và cả với đồng minh, giờ đây đã nhận chịu sự “khoan hồng, nhân đạo” của giặc một cách tuyệt đối và vô điều kiện. Còn nhớ ngày xưa trong những lần Bắc phạt trở về, chỗ ngực chiếc áo bay màu đen của ông Kỳ vàng óng Lá Quốc Kỳ Vàng mà ông rất hãnh diện mang trên đó, thì ngay nay Kỳ đã cúc cung cúi đầu quy phục lá cờ đỏ, biểu tượng của diệt chủng và diệt dân tộc của cộng sản Hà Nội, bằng một thái độ rất ươn hèn rất không tương xứng với vị thế của một người cựu Tướng chỉ huy toàn Miền Nam. Với ảo tưởng rằng sẽ nhận được những cái hôn thắm tình “hữu nghị” và rất “anh em” của bọn cộng sản Hà Nội, Kỳ xênh xang áo gấm về nước. Thật ô nhục, với thân phận là người cao nhất nước của năm 1965 trong cương vị Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia, thì đáng lẽ ít nhất gã thủ tướng của bạo quyền Hà Nội là Phan Văn Khải sẽ ra tận cầu thang máy bay hôn lên cái trán bóng mỡ và lên hai đôi gò má dầy da của Kỳđể tỏ rõ tinh thần “hòa giải hòa hợp” giữa riêng bọn chúng và chỉ mỗi bọn chúng với nhau, thế mà chỉ lèo tèo có một gã gọi là chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc và một gã thành ủy Sài Gòn.
Cộng sản thường có lối đặt chữ rất mù mờ bất thành câu. Mặt Trận Tổ Quốc là mặt trận gì, nếu phải đặt cho tròn câu với đầy đủ danh từ và động từ, thì phải là Mặt Trận Tổ Quốc Ðứng Lên hay Ngồi Xuống hoặc Giải Phóng gì đó, Mặt Trận Tổ Quốc khơi khơi là thế nào ? Như vậy người ta thấy ngay nó là một cái mặt trận không làm gì cả, không ra gì cả, từ đó suy ra rằng gã chủ tịch chỉ là một cái con người rơm lúc lắc theo những cơn gió ngoài đồng. Ðưa một cái hình nộm hữu danh vô thực, vô quyền và không giữ vị trí tối cao nào trong hệ thống tổ chức cộng sản, Hà Nội đã trịch thượng gởi một cái thông điệp đến Nguyễn Cao Kỳ, mà chúng ta có thể hiểu như sau: “Nông Ðức Mạnh, Phan Văn Khải
và Trần Ðức Lương sẽ không bao giờ hạ mình xuống ngang hàng với gã hàng thần lơ láo Nguyễn Cao Kỳ, dù là chỉ để ban cho một cái vỗ vai khen ngợi, thì đừng có mà mơ tưởng đến những cái hôn của chúng và đôi cánh tay giang ra ôm ấp trong tư thế “hòa hợp hòa giải”. Lại càng khó có thể được ngồi gác chân trong những bộ salon đắt tiền ở Bắc Bộ Phủ bàn chuyện đại sự với cộng sản”. Ðó là một cách làm nhục đối phương một cách khá là trắng trợn và rõ ràng của Hà Nội, Nguyễn Cao Kỳ đủ thông minh để biết điều đó và đủ hèn để cúi đầu im lặng leo lên máy bay trở về Mỹ quốc, không kèn và không trống.
Từ nay, những nhà viết sử đã có thể thêm vào đằng sau những Trần Di Ái, Trần Ích Tắc, Mạc Ðăng Dung, Lê Chiêu Thống cái tên Nguyễn Cao Kỳ. Còn đối với bè lũ cộng sản Hà Nội:
Chừng nào mà chúng chưa tự trói mình quỳ gối cúi xin dân tộc tha thứ cho những tội ác tày trời của chúng.
Ngày nào mà nhân phẩm người phụ nữ còn bị chà đạp, hàng trăm ngàn cô gái còn bị bán khắp thế giới làm nô lệ tình dục.
Chừng nào mà hàng triệu trẻ em nghèo còn thất học và vẫn lang thang khắp đầu đường xó chợ.
Ngày nào mà người công nhân Việt Nam còn bị bọn chủ ngoại quốc hành hạ, xúc phạm danh dự và thân thể.
Chừng nào mà những nghĩa trang của những tử sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn bị san bằng và hủy diệt, những người chiến sĩ thương phế Việt Nam Cộng Hòa còn bị chà đạp nhân phẩm và bị bỏ rơi ngoài lề xã hội.
Ngày nào mà dân tộc Việt Nam không được hoàn toàn tự do bày tỏ chính kiến khác biệt, niềm tin tôn giáo, tín đồ và những nhà lãnh đạo tôn giáo còn bị bách hại, giam cầm.
Và trên tất cả, chừng nào mà dân tộc Việt Nam vẫn chưa được cho sống như con người đúng nghĩa với những quyền lợi căn bản.
Thì ngày ấy cộng sản Hà Nội đừng có ảo tưởng mơ mộng cái gọi là hòa hợp hòa giải. Chúng chỉ có hai chọn lựa. Thứ nhất, tự nguyện trao trả đất nước lại cho dân tộc để có thể được cứu xét tha thứ. Thứ hai, dọn mình chờ ngày toàn dân đứng lên lật đổ chúng, lúc đó, xin được báo trước và cảnh cáo cho chúng biết, đến sắt thép cũng phải nát tan thành tro bụi dưới cơn thịnh nộ của trời và người).
Với sự trợ giúp của các nước Ðồng Minh, trong đó phần đóng góp chính yếu đến từ Hoa Kỳ từ sau năm 1954, QLVNCH đã dần lớn mạnh, không những đủ khả năng chận đứng đà xâm lăng cuồng bạo của binh đội cộng sản Bắc Việt, mà còn đánh cho bọn chúng tan tành thành từng mảnh vụn trong những chiến thắng lừng danh thế giới như Mậu Thân 1968, chiến dịch hành quân sang Kampuchea đập nát những hang ổ kho tàng tiếp liệu cộng quân năm 1970. Trong cuộc hành quân sang Hạ Lào, chiến dịch Lam Sơn 719, mặc dù bị báo chí và truyền thông Hoa Kỳ cũng như nằm vùng cộng sản tiết lộ bí mật, QLVNCH ngay từ đầu đã ở trong thế hạ phong nhưng vẫn đánh thiệt hại rất nặng lực lượng cộng quân. Chiến thắng lừng lẫy nhất mà đã làm cho toàn thế giới phải cúi đầu ngưỡng phục, kể cả giới truyền thông báo chí phản chiến và thân cộng cũng phải xấu hổ gục đầu công nhận tính chất xâm lược rõ ràng của cộng sản Hà Nội và tinh thần chiến đấu dũng mãnh của QLVNCH. Ðó là cuộc chiến Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972. QLVNCH đã để lại trong lịch sử Việt Nam trang sử chiến đấu chói lọi nhất, thiêu cháy huyền thoại Ðiện Biên Phủ Võ Nguyên Giáp. Sau cơn thảm bại mùa hè 1972 nhục nhã, Giáp bị cách chức.


QLVNCH chiến đấu trong nỗi cô đơn cay cực mà chưa từng có một đội quân nào trên thế giới đã trải qua hoàn cảnh ngặt nghèo tương tự. Vừa phải đổ máu xương ngăn chống cộng sản ở phía trước mặt mà còn phải hứng chịu những vết đâm lút sâu của những thế lực bạn bè từ phía sau lưng và sự hững hờ từ phía hậu phương. Người chiến binh Việt Nam Cộng Hòa bị trói tay không cho đánh, mặc dù chỉ chiến đấu để tự vệ, bảo vệ làng xóm. Chính họ đã hy sinh mạng sống để cho dân tộc được sống và được hạnh phúc. Sự dàn xếp của những thế lực cộng sản quốc tế và tư bản đã đưa đến ngày tang thương 30.4.1975, QLVNCH một lần nữa bị buộc phải hoàn toàn buông súng. Bọn cộng sản tiểu nhân đắc chí ngổ ngáo tiến vào chiếm lấy Việt Nam Cộng Hòa, ngông nghênh tuyên bố đại thắng, thực hiện sách lược sĩ nhục lăng mạ và đày ải những người chiến binh QLVNCH và vợ con gia đình của họ. Nhưng thật sự có phải cộng sản Bắc Việt đã chiến thắng hay không ? Sau hơn một phần tư thế kỷ kể từ ngày 30.4.1975, giờ đây mọi góc cạnh của sự thật đã được phơi bày dưới ánh sáng của mặt trời. Chúng ta khẳng định mạnh mẽ QLVNCH không hề thua và cộng sản không hề thắng trong trận chiến đấu cuối cùng ngày 30.4.1975. Sự thắng thua chỉ được phân định khi hai lực lượng cùng đối mặt chiến đấu giữa hai chiến tuyến. Hai võ sĩ so găng trên võ đài, một võ sĩ bị trói tay chân và với sự đồng tình của ban trọng tài đã bị võ sĩ kia đánh đập rồi tự đưa tay tuyên bố chiến thắng và tha hồ lăng mạ sĩ nhục đối phương. Cuộc thắng thua còn chưa được phân định khi viên đạn cuối cùng còn chưa được bắn ra khỏi nòng súng.
Giờ đây, sau gần ba mươi năm chứng kiến những tội ác ghê tởm hãi hùng của cộng sản Hà Nội bủa lên đầu chính dân tộc của chúng, công luận thế giới đã khẳng định chế độ cộng sản là một cái quái thai kinh khủng nhất trong lịch sử nhân loại và cần phải hủy diệt nó. Ngọn gió đã đổi chiều thuận lợi cho QLVNCH. Hệ thống truyền thông và báo chí ngoại quốc từng một thời ngày xưa góp tay bôi nhọ làm nhục người chiến sĩ VNCH, ngày nay đã hồi phục danh dự cho QLVNCH, biểu dương tinh thần chiến đấu và chính nghĩa của Việt Nam Cộng Hòa. Cuối cùng thì những giá trị nhân bản thực sự của người lính Việt Nam Cộng Hòa đã được thế giới thừa nhận và tôn vinh. Những nắm xương khô đang mục rã theo với thời gian nghiệt ngã của 300 ngàn tử sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nằm câm nín u uất dưới những nghĩa trang hoang phế điêu tàn, hay ở những chống rừng sâu núi thẳm, cùng với nửa triệu chiến sĩ thương phế mà phần lớn còn sống lây lất và khắc khoải bên kia bờ Thái Bình Dương, tất cả những người anh hùng vĩ đại đó giờ đây đã được tôn vinh. Ðiều mà những người còn sống, những người còn lành lặn thân xác phải làm là sẽ cùng nhau tìm cách cắm lên bia mộ các anh những nén hương của lòng tri ân với những giọt nước mắt tiếc thương, cùng nhau gởi về cho các anh thương phế chút lòng của những người đồng đội mà ngày xưa từng kiêu hãnh đứng chung dưới lá Quân Kỳ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, để các anh còn tiếp tục nuôi dưỡng một niềm tin. Rồi sẽ có một ngày, cơn thịnh nộ của đất trời và của toàn dân tộc Việt Nam sẽ như con sóng thần biển Ðông cuốn xô đi những tàn tích của cái ác.
Chúng ta cũng nghiêng mình trước Bức Tường Ðá Ðen ở Washington D.C, tri ân hơn 58,000 chiến sĩ Hoa Kỳ trận vong, những người bạn đã từng sát cánh chia sẽ nỗi cơ cực và chết chóc của chiến tranh với người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, vì nền tự do của đất nước Việt Nam Cộng Hòa. Chúng ta tri ân và vinh danh 300,000 chiến binh thương phế Hoa Kỳ đã bỏ lại một phần thân thể của các anh trên một đất nước thật quá xa xôi để trở về nhận chịu sự thờ ơ lãnh đạm của chính người dân Mỹ, cùng mang mễn những chứng bệnh tinh thần trầm kha. Giờ đây thì anh linh của tất cả những người lính trận vong Hoa Kỳ và Việt Nam đã có thể đi về phía cõi vĩnh hằng với lòng thanh thản, những chiến sĩ thương binh Hoa Kỳ và Việt Nam đã có thể thể ngẫng cao đầu cười nửa miệng trên những đống gạch đổ nát ngỗn ngang của bức tường thành Bá Linh và những mảnh vụn của cái quái thai chủ nghĩa cộng sản. Chính là các anh, người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và người lính Quân Lực Hoa Kỳ đã là nỗ lực chánh hủy diệt cái ác mệnh danh là chủ nghĩa cộng sản đó. Chúng ta có thể xác quyết một điều là, ngày nào mà người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa còn tập họp, đoàn kết đứng chung dưới lá Quốc Kỳ và Quân Kỳ Việt Nam Cộng Hòa, thì ngày đó cộng sản Hà Nội còn rất run sợ, ngày ăn không thấy ngon, đêm ngủ không được yên giấc. Chúng phải hiểu một điều đơn giản nhưng rất thật là, cho dù chúng có nặn cái bộ óc “trí tuệ” của loài Vượn đến thế nào để cho ra bao nhiêu cái nghị quyết nhắm vào người Việt hải ngoại và Tập Thể người lính QLVNCH, thì cũng sẽ hoàn toàn không ăn được cái giải gì, giống như những cú đánh mất hút vào cõi hư vô. Chúng chỉ thắng được chúng ta ngày 30.4.1975, khi chúng ta bị buộc phải buông súng mà thôi. Ba mươi năm trước, cộng sản Hà Nội cậy có súng AK để đánh đập, hạ nhục, giết chóc những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không còn vũ khí trong những trại tù khắc nghiệt và dã man của chúng. Ngày nay, ba mươi bốn năm sau, tuy rằng trong tay người lính chúng ta không còn cây súng M 16, nhưng chúng ta có rất nhiều sức mạnh mà cộng sản Hà Nội hằng run sợ.
Thứ nhất, sự phẫn nộ của người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Hàng trăm ngàn người lính đã ra được đến bến bờ tự do, dù họ không còn vũ khí, nhưng mỗi trái tim bất khuất của các anh chính là thứ vũ khí sắc bén nhất và hữu hiệu nhất, những trái tim đó đã kết nên thành một bức tường cứng rắn. Ba mươi năm nay, cộng sản đã hằng bắn phá vào bức tường ấy, chỉ để thấy rằng chúng đã một lần nữa chiến bại. Tập Thể Người Lính Việt Nam Cộng Hòa vẫn luôn là lực lượng duy nhất đối kháng và ngăn chống cực lực mọi cuộc tấn công của cộng sản, dù là bằng bất cứ hình thức nào.


Thứ hai, cuộc chiến đấu bằng cây viết của những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Cộng sản từng tuyên án: “Một nhà văn “ngụy” bằng mười sư đoàn tác chiến”. Ngày nay, cây viết của những người lính đã trở thành cây súng M 16 bắn những giọt mực ngạo nghễ và thách thức vào mặt cộng sản Hà Nội, ngòi bút xé toang bức màn đen tối của giả dối và tàn bạo để đưa ra trước công luận thế giới và lịch sử sự thật về cuộc chiến tranh xâm lược của cộng sản quốc tế lên Miền Nam và cuộc chiến đấu bảo quốc kiệt liệt của quân dân Miền Nam.
Thứ ba, chiến thắng vẻ vang chấn động cả thế giới của người Việt hải ngoại qua sự kiện vừa kỳ lạ lẫn kỳ diệu: Lá Quốc Kỳ Vàng Ðại Nghĩa Ba Sọc Ðỏ hiện nay đã phất phới, ngạo nghễ tung bay ở nhiều tiểu bang, quận hạt, thành phố và trong nhiều trường đại học khắp nước Mỹ. Ðó há chẳng phải là một dấu hiệu, một sự thừa nhận chân thành của người Mỹ, rằng chỉ có Lá Cờ Vàng Việt Nam mới là biểu tượng của chính khí dân tộc Việt Nam, là biểu trưng của cuộc chiến đấu quật cường của một dân tộc nhỏ bé chỉ có gần 18 triệu người mà đã anh dũng ngăn chống một đại khối cộng sản quốc tế với dân số hơn 1 tỉ người. Không chỉ ở Hoa Kỳ, mà gần như trên toàn thế giới, Lá Quốc Kỳ Vàng Ba Sọc Ðỏ của Việt Nam Cộng Hòa vẫn hằng năm tung bay trên cột cờ thị chính của những thành phố lớn trong ngày 30.4. Ðó há chẳng phải là sự ghê tởm và chối bỏ chủ thuyết cộng sản và lá cờ máu tanh hôi của bè bọn cộng sản Hà Nội của lương tâm thế giới hay sao.
Ngày Quân Lực 19.6 năm nay có nhiều ý nghĩa quan trọng. Nó đánh dấu sự bắt đầu hồi sinh của QLVNCH và của niềm tin chính nghĩa quốc qua cuộc đọ sức gay go giữa cái Thiện và cái Ác. Ngày tàn của bọn cộng sản Hà Nội không còn bao xa nữa. Bên trong cái vỏ bọc hào nhoáng phù du hiện tại mà bọn cộng sản tô vẻ ở quê nhà, chỉ là một cái ruột rỗng tuếch mục nát chờ giờ sụp đổ. Với sự tập họp của những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, được thể hiện qua sự đoàn kết cao độ trong Tập Thể Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa Hải Ngoại, kết hợp với những phong trào đấu tranh đòi quyền sống, quyền làm người và quyền tự do tín ngưỡng ngày càng sôi sục ở quốc ngoại và quốc nội, dân tộc Việt Nam có quyền hy vọng sẽ có nhiều chiến thắng khác liên tục và lừng lẫy hơn, để cuối cùng lật đổ được bè lũ bạo quyền Hà Nội.
Anh linh của tiền nhân, của những vị thần tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Phạm Văn Phú, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Hồ Ngọc Cẩn, Trung Tá Cảnh Sát Quốc Gia Nguyễn Văn Long, các Trung Ðoàn Trưởng, Tiểu Ðoàn Trưởng, sĩ quan và các chiến sĩ Vị Quốc Vong Thân xin hãy hiển linh thương xót phù trì cho dân tộc Việt Nam và QLVNCH có được nhiều sức mạnh đứng lên lật đổ bạo quyền cộng sản, đem ánh sáng công chính và hạnh phúc trở lại trên khắp mọi miền đất nước, ném bọn chúng vào cõi sâu thẳm tối tăm nhất và đời đời của địa ngục.
Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm
Phạm Phong Dinh

Tướng Lê Nguyên Vỹ lưu tiếng ngàn thu – Phạm Phong Dinh



Ngày 13.4.1972, sư đoàn 9 Bắc Việt mở màn chiến dịch đánh chiếm An Lộc, sau khi pháo binh đủ loại của địch bắn cường tập vào tất cả vị trí phòng thủ của Chiến Sĩ Sư Ðoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hòa.
Cộng quân dội cả một cơn bão lửa kinh khiếp lên đầu ba ngàn Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa, gồm các Ðơn vị của Trung Ðoàn 7, Trung Ðoàn 8 thuộc Sư Ðoàn 5 Bộ Binh. Chiến Ðoàn 52 thuộc Sư Ðoàn 18 Bộ Binh, Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân, Pháo Binh và Trung Ðoàn 9 Bộ Binh của Sư Ðoàn 5 Bộ Binh triệt thoái từ Quận Lộc Ninh về.
Cơn hỏa pháo của địch dội lên chiến tuyến của quân phòng thủ dữ dội và kéo dài đến mãi 6 giờ chiều. Giặc muốn đánh phủ đầu quân ta bằng hỏa lực pháo, làm tiêu hao Lực Lượng Sư Ðoàn 5 Bộ Binh và hy vọng tinh thần chiến đấu của Chiến Sĩ Ngôi Sao Miền Ðông bị suy sụp. Trong lúc pháo địch nã liên hồi kỳ trận vào Thị Xã An Lộc ghìm đầu quân ta xuống, thì trung đoàn 203 thiết giáp Bắc Việt vừa được điều động từ Hạ Lào vào Miền Ðông, đã đưa hàng trăm chiếc T-54 và T-59 (loại T-54 của Nga sô do Trung cộng biến cải) áp sát vào mọi tuyến phòng thủ của các Ðơn vị Việt Nam Cộng Hòa. Lực lượng thiết giáp địch ủi quá nhanh xuyên qua chiến tuyến của Sư Ðoàn 5 Bộ Binh làm bộ binh thuộc sư đoàn 9 Bắc Việt địch không theo kịp, một phần lớn bị quân Sư Ðoàn 5 Bộ Binh chận đánh dữ dội. Vài chục chiếc tăng của cộng quân ầm ầm nghiến bánh xích tràn vào Thành Phố không có bộ binh tùng thiết. Một chiếc T54 của giặc chạy đến gần hầm của Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, mũi súng đại bác quay ngang dọc, nhiều lúc nó đứng sững ngơ ngác giữa Ðường phố và không biết phải hành động ra sao.
Chuẩn Tướng Hưng mặc chiếc áo thun quân đội màu xanh ô liu, một tay cầm khẩu M16, một tay thủ sẵn một quả lựu đạn. Chiếc xe tăng T-54 đang nổ máy ì ầm và đậu cách hầm Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn một khoảng ngắn. Chỉ cần nó quay mũi súng khạc đạn vào hay húc bừa và cán lên hầm, thì tất cả những người trong hầm khó mà thoát chết. Chuẩn Tướng Hưng đinh ninh trong lòng rằng, vạn nhất bọn cán binh Bắc Việt có tràn vào ‘’bắt sống Sư Trưởng Sư 5 ngụy giải về Hà Nội’’, như ta đã nghe được qua điện đàm của địch, thì ông sẽ cho nổ lựu đạn và cùng hy sinh, để khỏi lọt vào tay giặc. Tuy nhiên, thời điểm hy sinh của người anh hùng vẫn chưa đến. Ðịnh mệnh sẽ dành cho người một cái chết xứng đáng hơn, tên tuổi của người sẽ đi vào lịch sử ngàn đời sau. Giờ đây, có một người chiến binh nổi tiếng dũng cảm nhất của Sư Ðoàn 5 Bộ Binh sẽ đứng ra giải tỏa mỗi lo cho người Tư Lệnh của mình.
Ðại Tá Lê Nguyên Vỹ, Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 8 Bộ Binh, được Chuẩn Tướng Hưng triệu về hầm chỉ huy kiêm nhiệm chức vụ Sĩ Quan Hành Quân Sư Ðoàn. Ðại Tá Vỹ cầm lấy khẩu súng bắn hỏa tiễn chống tăng M-72 của một người Lính đứng gần ‘’Em để Qua làm thịt thằng này’’. Gương khẩu M-72 ra hết chiều dài ở thế khích hỏa, Ðại Tá Vỹ thò đầu lên khỏi miệng hầm, ông gác khẩu M-72 để cho cái nòng phụt hậu của nó xoay về hướng trống, để khi xạ kích lửa phụt hậu không phụt trúng những người trong hầm. Chiếc T-54 vẫn loay hoay chạy chầm chậm tênh hênh giữa đường. Ðại Tá Vỹ lấy đường nhắm, ba ngón tay miết lên miếng cao su kích hỏa. Một tiếng đánh xẹt rợn người của chiếc hỏa tiễn phóng về chiếc tăng địch, một làm lửa màu cam phụt mạnh về phía sau. Trúng rồi, quả đạn bắn trúng vào hông chiếc T54.
Một tiếng nổ kinh hồn vang dậy, một khối lửa đỏ và khói trắng mù mịt bao phủ lấy chiếc T-54. Chiếc tăng địch nằm chết lịm, xa đoàn 4 người bị kẹt trong lòng xe và bị cháy thui theo. Sĩ Quan và Chiến Sĩ nấp trong hầm mừng quá nhảy lên reo hò vang trời. Một anh Chiến Sĩ ôm lấy Ðại Tá Vỹ la lớn: ‘’Trúng rồi, Ðại Tá!’’. Quả M-72 của Ðại Tá Vỹ có tác dụng vực dậy tinh thần chiến đấu của Sư Ðoàn 5 Bộ Binh.
Ðại Tá Lê Nguyên Vỹ đích thực là một khuôn mặt lừng lẫy của Miền Ðông từ khi ông về phục vụ dưới cờ Sư Ðoàn 5 Bộ Binh từ năm 1968. Ông nổi danh là một Chiến binh quả cảm, một Sĩ Quan mẫn cán, năng nổ, có tài tham mưu và chỉ huy. Ông đi lần lên đến chức vụ Trung Ðoàn Trưởng là nhờ những chiến công gặt hái được ngoài chiến trường. Tiếng tăm của Ðại Tá Vỹ đã trở nên quen thuộc với các Chiến Sĩ trong những Tỉnh thuộc trách nhiệm bảo vệ của Sư Ðoàn 5 Bộ Binh gồm Bình Dương, Phước Long và Bình Long. Ngay cả vị Cố Vấn Quân Ðoàn III trong bản phúc trình hàng năm gửi lên MACV (Military Assistance Command of Vietnam) đã viết như sau: ‘’Ðại Tá Lê Nguyên Vỹ, Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 8 Bộ Binh thuộc Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, là Trung Ðoàn Trưởng giỏi nhất Quân Ðoàn III. Ðại Tá Vỹ đủ khả năng để trở thành một Tư Lệnh Sư Ðoàn…’’.
Với bản báo cáo súc tích như thế này, đã đủ giải thích cái lon Chuẩn Tướng và chức vụ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh của Ðại Tá Vỹ, sau khi Chuẩn Tướng Hưng rời Sư Ðoàn về Cần Thơ làm Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn IV & Quân Khu IV vào khoảng tháng 11.1973. Người Mỹ rất cao ngạo, khó tánh và rất hà tiện lời khen các giới chức chỉ huy Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng một khi họ đã chịu công nhận bản lĩnh các vị Tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa thì chắc chắn họ đã nhận xét đúng với lương tâm của họ.
Ta hãy nghe thêm phúc trình của hai vị Cố Vấn Trưởng và Phó của Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, vốn có nhiều kinh nghiệm tham mưu, hành quân và tiếp xúc trực tiếp với Ðại Tá Lê Nguyên Vỹ. Ðại Tá John G. Hayes, Cố Vấn Trưởng Sư Ðoàn 5 Bộ Binh phúc trình lên Cố Vấn Quân Ðoàn III ngày 7.2.1970 như sau: ‘’Ðại Tá Lê Nguyên Vỹ, nhận chức ngày 20.12.1968, có 19 năm quân ngũ. Ðại Tá Vỹ là một cấp Chỉ Huy Trưởng xếp hạng trên trung bình. Ông có khả năng, rất xông xáo, có nhiều sáng kiến trong lúc chạm địch và trong khi Huấn luyện Binh Sĩ’’. Trung Tá Roy E. Couch, Cố Vấn Phó Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, trong bản phúc trình ngày 4.2.1970 thì lại đánh giá Ðại Tá Vỹ cao hơn nữa: ‘’Ðại Tá Lê Nguyên Vỹ, Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 8 Bộ Binh là một Sĩ Quan tài ba, rất nhiệt tâm, rất nghiêm chỉnh và rất được việc. Một người Quốc Gia nhiệt tình. Ðáng được thăng chức’’.
Sau chiến thắng An Lộc, Ðại Tá Vỹ được điều động về làm Tư Lệnh Phó Sư Ðoàn 21 Bộ Binh một thời gian. Trong một tai nạn trực thăng, ông đã thoát chết nhưng bị thương nhẹ ở chân. Chiến trường miền Tây khá yên tĩnh sau thời điểm Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972. Sư doàn 1 Bắc Việt ẩn náu trong các vùng U Minh tối tăm và vùng biên giới tránh né không dám đụng độ với các Sư Ðoàn thiện chiến của miền Tây. Những ngày chỉ huy Chiến Sĩ Tia Sét Miền Tây là những ngày khá nhàn nhã của Ðại Tá Vỹ, chưa cần đến những trận đánh lớn có mặt Sư Ðoàn 21 Bộ Binh. Các Ðơn Vị Ðịa Phương Quân Quân Khu IV đã lớn mạnh và có khả năng đảm đương hầu hết các cuộc giao tranh ở vùng đồng bằng. Nhờ vậy Ðại Tá Vỹ được gọi đi học Khóa Chỉ Huy và Tham Mưu Cao Cấp bên Mỹ. Khi ông trở về Việt Nam, cái ghế và văn phòng Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh đang chờ đợi ông. Ðại Tá Vỹ được bổ nhiệm chức vụ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, thay thế Chuẩn Tướng Trần Quốc Lịch và được vinh thăng Chuẩn Tướng khoảng cuối năm 1974, phụ giúp Chuẩn Tướng Vỹ là một dàn Sĩ Quan tài năng của Quân Ðoàn III, vị Tư Lệnh Phó Sư Ðoàn 5 Bộ Binh là Ðại Tá Trần Văn Thoàn, Ðại Tá Từ Vấn giữ chức Tham Mưu Trưởng Sư Ðoàn, Ðại Tá Nguyễn Mạnh Tường Sĩ Quan Hành Quân Sư Ðoàn, Trung Tá Nguyễn Minh Tánh Thiết Ðoàn Trưởng Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh, Ðơn Vị Thiết Giáp cơ hữu của Sư Ðoàn 5 Bộ Binh và Trung Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng Trung Ðoàn Trưởng.
Chuẩn Tướng Vỹ, dưới con mắt kính trọng của Chiến Sĩ Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, ông là một vị chỉ huy siêng năng và đáng kính. Chuẩn Tướng Vỹ làm việc không kể giờ giấc, ngày đêm. Mới vừa thấy ông ở Bản Doanh Bộ Tư Lệnh đóng ở Lai Khê, thì sau đó ông đã lên trực thăng đi thăm các Trung Ðoàn, Tiểu Ðoàn để thăm hỏi sinh hoạt và đời sống của Chiến Sĩ, kiểm tra, đốc thúc các Ðơn vị củng cố Ðơn vị phòng thủ, đắp chướng ngại vật cản chiến xa. Giống như những vị Tư Lệnh năng nổ khác, Chuẩn Tướng Vỹ lưu tâm đặc biệt đến việc Huấn Luyện Tân Binh, thường xuyên mở lớp Huấn luyện và ôn tập cho Sĩ Quan và Binh Sĩ.
Một đặc điểm khác trong cá tính của Chuẩn Tướng Vỹ, là ông nổi tiếng thanh liêm và chống tham nhũng, làm người ta nhớ lại hình ảnh của Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu hồi còn làm Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh. Tuy nhiên bản tính của Chuẩn Tướng Vỹ bộc trực và rất dễ nổi nóng trước cái ác và cái xấu. Chuẩn Tướng Vỹ rất hăng hái trong công tác bài trừ tham nhũng trong Sư Ðoàn. Một số Sĩ Quan mà dưới thời Chuẩn Tướng Trần Quốc Lịch được ông này dung túng làm chuyện càn quấy, ăn chận trên đầu trên cổ và trên xương máu của Chiến Sĩ, đã bị Chuẩn Tướng Vỹ trừng trị thẳng cánh. Như trường hợp một người Thiếu Tá Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 3 Trung Ðoàn 9. Một Ðại Úy Ðại Ðội Trưởng Ðại Ðội 5 Trinh Sát, đã bị phạt giáng cấp xuống làm Trung Sĩ. Trong một buổi khai giảng Khóa Huấn Luyện Tân Binh tại Trung Tâm Huấn Luyện Sư Ðoàn 5 Bộ Binh ở Lái Thiêu, ông đã công kích tệ nạn tham nhũng trong vòng một tiếng đồng hồ. Ông nhiều lần than thở với các Sĩ Quan thân cận: ‘’Chúng nó đã móc ngàm với nhau rất chặt chẽ, mình phải gỡ ra từ từ mới được’’.
Cái chặt chẽ mà ông thường nhắc đến, là tập đoàn con ông cháu cha nhiều như lũ ruồi nhặng và có mặt khắp nơi, khắp chức vụ trong Trung Tâm Huấn Luyện Sư Ðoàn. Ông gọi bọn tham sống sợ chết, bọn tham nhũng, ăn xén ăn bớt khẩu phần Khóa Sinh là ‘’lũ heo’’. Chuẩn Tướng Vỹ thường nói: ‘’Chúng nó ăn no béo, mập như những con heo’’. Một cá nhân nhỏ bé như ông, một cái lon Chuẩn Tướng chưa đủ sức mạnh để giúp ông đương đầu với bọn ăn chơi phè phỡn trên xương máu Chiến Sĩ. Thiếu Tướng Hiếu, người Tư Lệnh tiền nhiệm của ông, một thời được sự che chở của Phó Tổng Thống Trần Văn Hương để làm Chủ Tịch Ủy Ban Bài Trừ Tham Nhũng cũng đã gặp nhiều khó khăn. Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ sinh trưởng trong một gia đình Nho Học, danh gia ở Thị Xã Sơn Tây. Giòng họ Lê ở Sơn Tây nhiều người đỗ đạt, những người phục vụ trong Quân Ðội thì thăng lên đến những chức vụ cao cấp, như trường hợp Trung Tướng Lê Nguyên Khang, Tư Lệnh Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến, sau 1972 ông giữ chức Phó Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, phụ tá Ðại Tướng Cao Văn Viên.
Chuẩn Tướng Vỹ là con đầu trong một gia đình gồm hai em gái và một em trai. Ông gia nhập Quân Ðội và được đưa đi học Trường Bộ Binh Ðập Ðá ở Huế trong năm 1951 và Tốt nghiệp với cấp bậc Chuẩn Úy, được điều về phục vụ trong Tiểu Ðoàn 19 Bộ Binh, dưới quyền chỉ huy của Ðại Úy Ðỗ Cao Trí. Khi được vinh thăng Ðại Úy, ông được cử đi làm Quận Trưởng Quận Bến Cát, Tỉnh Bình Dương. Từ năm 1968, Trung Tá Lê Nguyên Vỹ được tín nhiệm lên làm Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 8 Bộ Binh của Sư Ðoàn 5 Bộ Binh. Trong Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972, Ðại Tá Vỹ được Chuẩn Tướng Hưng, Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh giao cho kiêm nhiêm luôn chức vụ Sĩ Quan Phụ Tá Hành Quân Sư Ðoàn. Sau chiến thắng An Lộc, Ðại Tá Vỹ lại một lần nữa hành trang về miền Tây đáo nhận Sư Ðoàn 21 Bộ Binh với chức vụ Tư Lệnh Phó. Trong một lần bay trên trực thăng quan sát hành quân, máy bay bị bắn rơi, Ðại Tá Vỹ bị thương ở chân phải nằm Quân Y Viện một thời gian.
Chuẩn Tướng Vỹ là một trong những vị Tướng hiếm hoi có tinh thần tự trọng cao độ, không bao giờ ỷ lại vào mọi sự trợ giúp của phía Hoa Kỳ. Người ta thấy ở ông tinh thần tự lực cánh sinh và có nhiều sáng kiến khi phải đương đầu với những vẫn đề khó khăn. Trong một buổi họp bàn về phòng thủ, một vị Trung Ðoàn Trưởng báo cáo tình hình xây dựng hàng rào phòng thủ gặp nhiều trở ngại vì thiếu cọc sắt viện trợ của Quân Ðội Hoa Kỳ, Chuẩn Tướng Vỹ không kềm được sự tức giận: ‘’Cái gì cũng Mỹ… Mỹ nó bỏ anh rồi biết không? Vùng này thiếu gì tre gai, cho Lính trồng dọc theo hàng rào phòng thủ. một thời gian sau sẽ thành một vòng đai tre gai dầy đặc, việt cộng nào mà vào được’’. Tuy sáng kiến của ông rất hay và ít tốn kém, nhưng Quân Ta không có đủ thời gian để thực hiện. Mọi sự đều đã quá muộn màng.
Vừa phải nâng cao đời sống Binh Sĩ và gây dựng lại tinh thần chiến đấu suy sụp của Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, Chuẩn Tướng Vỹ còn phải lo đối phó với áp lực địch ngày càng nặng trong Khu vực trách nhiệm, nhất là Tỉnh Bình Long và Thị Xã An Lộc. Sau ngày chiến thắng Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972, An Lộc mấy năm sau vẫn là một đống gạch đá đổ nát và quãng đường từ Chơn Thành lên An Lộc vẫn hoang vắng rợn người. Tuy vậy Quân Ðoàn III vẫn phải điều các Liên Ðoàn Biệt Ðộng Quân lên trấn giữ. Sự dàn trải Binh lực chặt chẽ như vậy vẫn không làm Ðại Tá Vỹ an tâm.
Ông đã có cái nhìn xa và có tính cách chiến lược về mưu toan của địch quân. Ông thường tâm sự với các Sĩ Quan Tham Mưu: ‘’Tôi nghi ngờ chúng nó không đánh mình ở ngoài này mà tìm cách len lõi đi thẳng vào Sài Gòn’’. Sự phán đoán đó về sau đã hoàn toàn đúng. Quân đoàn Bắc Việt không giao chiến với Sư Ðoàn 5 Bộ Binh, tìm cách len lõi xuyên qua những điểm bố trí của Sư Ðoàn để hối hả tiến về Sài Gòn dứt điểm Chính Quyền chủ bại Dương Văn Minh. Suốt đêm 28.4.1975, tại các vị trí quan sát, quân Sư Ðoàn 5 Bộ Binh thấy rõ binh đội Bắc Việt và chiến xa địch đi hàng hàng lớp lớp bên Xa Lộ Ðại Hàn Bình Dương-Sài Gòn công khai và không cần ngụy trang cây lá. Binh Sĩ trong Trung Tâm Huấn Luyện bắn súng cối vào đội hình của địch, chúng phản kích qua loa rồi gấp rút di chuyển tiếp, chỉ để lại một vài bộ phận khống chế Chợ Lái Thiêu.
Vào trung tuần tháng 4.1974 Quận Chơn Thành bị bỏ ngõ, Căn Cứ Lai Khê, Bản Doanh của Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh coi như là Tiền Ðồn đương đầu trực tiếp với các sư đoàn cộng quân. Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư Lệnh Quân Ðoàn III lên Lai Khê bàn với Chuẩn Tướng Vỹ, rằng nên di chuyển Bộ Tư Lệnh về Phú Lợi, và bố trí một Trung Ðoàn trấn thủ Lai Khê. Tuy nhiên Tướng Vỹ đã thẳng thắn từ chối: ‘’Nếu tôi di chuyển đi Phú Lợi, Lính tráng sẽ nói mình di tản chiến thuật sao? Tôi quyết sống chết cũng ở nơi này’’. Riêng Tướng Toàn, trước áp lực rất mạnh của quân đoàn Bắc Việt bao vây trong lãnh thổ Quân Khu III và tình hình tuyệt vọng của Sư Ðoàn 18 Bộ Binh ở Long Khánh, mặc dù Chiến Sĩ Sư Ðoàn 18 Bộ Binh đã chiến đấu anh dũng cầm chân một quân đoàn địch, ông đã cho di chuyển Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn III về đóng chung với Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp, vì ông cũng kiêm nhiệm luôn Chỉ Huy Trưởng Thiết Giáp. Như vậy chính Tướng Toàn là người nảy ra ý nghĩ di tản trước cả thuộc cấp. Hơn một tuần sau, cũng chính ông là viên Tư Lệnh Quân Ðoàn đào ngũ bỏ chạy ra nước ngoài trước nhất, chỉ sau ông Thiệu, Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và ông Viên Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa có vài ngày.
Trong tình hình dầu sôi lửa bỏng đó, Trung Tá Nguyễn Minh Tánh, Thiết Ðoàn Trưởng Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh xin phép Chuẩn Tướng Vỹ về Sài Gòn vài ngày có việc riêng. Trung Tá Tánh về đến Sài Gòn, ông chứng kiến bầu không khí nặng nề đầy lo âu.
Ngày 28.4.1975, Chuẩn Tướng Vỹ quyết định cho di chuyển Bộ Tư Lệnh nhẹ Sư Ðoàn 5 Bộ Binh về Phú Lợi, một Cứ Ðiểm chỉ cách Thị Xã Bình Dương vài cây số, Ðại Tá Trần Văn Thoàn, Tư Lệnh Phó Chỉ Huy, Trung Ðoàn 8 của Trung Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng cũng được điều động về Phú Lợi, cùng với Chi Ðoàn 3/1 Kỵ Binh của Ðại Úy Nguyễn Văn Thiệp. Chuẩn Tướng Vỹ nhận định tình hình vô cùng bất lợi cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nên cho phép Sĩ Quan thuộc cấp tìm đường lo cho vợ con di tản, nhưng bản thân các Sĩ Quan phải ở lại cùng chiến đấu với Sư Ðoàn. Phu nhân của Ðại Tá Thoàn có quốc tịch Pháp nên đã lo được giấy tờ đi Pháp cùng với gia đình của Tướng Vỹ. Hiện Phu nhân của Chuẩn Tướng Vỹ đang định cư ở Tiểu Bang Virginia, Hoa Kỳ.
Chiều ngày 29.4.1975 Bộ Tư Lệnh quyết định bỏ Căn Cứ Lai Khê di chuyển về Bình Dương, những quân trang quân dụng không mang theo được, giấy tờ quan trọng đều được đốt tiêu hủy. Trong Căn Cứ Lai Khê về đêm, nổi lên những đám lửa nhỏ đỏ rực. Ðêm 29.4.1975 chính là đêm dài nhất trong chiến sử của Chiến Sĩ Sư Ðoàn 5 Bộ Binh và của cả Sư Ðoàn 25 Bộ Binh của Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá bên hướng Căn Cứ Củ Chi. Dàn pháo 175 ly của Pháo Binh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh đã tích cực bắn yểm trợ cho Sư Ðoàn 25 Bộ Binh khi Căn Cứ Củ Chi bị cộng quân tấn công từ sáng ngày 29.4.1975, nhưng cũng không giúp được gì nhiều. Cuối cùng thì Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá và một Cận Vệ trung thành đã xa vào tay giặc trên một cánh đồng ngập nước, khi Chuẩn Tướng Bá cố gắng tìm về các Ðơn Vị Biệt Ðộng Quân ở Hóc Môn.
Sáng ngày 30.4.1975 họp Tham Mưu Sư Ðoàn xong. Chuẩn Tướng Vỹ và toàn Ban Sĩ Quan ngồi bên chiếc Radio chờ nghe Tướng Dương Văn Minh đọc diễn văn quan trọng. Ðúng 10 giờ, có tiếng của Tướng Minh. Tưởng là diễn văn kêu gọi Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chiến đấu đến giọt máu cuối cùng, hay tổ chức di tản về miền Tây tiếp tục cố thủ. Thực chất chỉ là một bản nhật lệnh ngắn ngủi, khô khan và nhục nhã kêu gọi Chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa các cấp buông súng, ai ở đâu ở đó và chờ binh đội cộng quân đến bàn giao. Tiếp theo là lời kêu gọi buông súng của Tướng Nguyễn hữu Hạnh, Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Vận nước đã đến hồi cáo chung, Chuẩn Tướng Vỹ, một Chiến Sĩ tuân thủ nghiêm nhặt Kỷ Luật Quân Ðội, u buồn bảo các thuộc cấp: ‘’Từ nay tôi không còn là người chỉ huy nữa, vậy các anh hãy tự lo liệu lấy’’. Nhưng trước khi chia tay, Chuẩn Tướng Vỹ đã mời các Sĩ Quan cùng ăn một bữa cơm cuối cùng với ông.
Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ đã họp Bộ Tham Mưu và các Sĩ Quan Trưởng Phòng và nói: ‘’Mặc dù có lệnh trên, nhưng tôi cương quyết không đầu hàng. Tôi sẽ có cách tự xử trí riêng của tôi’’. Nhìn khuôn mặt trầm buồn và ánh mắt u uất của người Tư Lệnh, các Sĩ Quan đoán chắc thế nào ông cũng tử tiết để bảo toàn danh dự người làm Tướng. Bữa cơm vĩnh biệt được dọn ra, những hạt cơm trắng ngần trong khoảng khắc ảm đạm đó dường như có vị mặn của máu và cứng ngắt như những hạt sỏi. Mọi người còn đang dùng cơm thì Chuẩn Tướng Vỹ bỗng bỏ đi ra ngoài. Ông bình tĩnh bước ra sân nghiêm trang đứng dưới cột cờ của Bộ Tư Lệnh, tự sát bằng chính khẩu súng chỉ huy của mình. Tất cả Sĩ Quan Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh đều có mặt khi các sĩ quan và binh đội cộng sản vào tiếp quản Doanh Trại. Sĩ quan sư đoàn cao cấp của địch đã nghiêng mình kính phục khí tiết của Chuẩn Tướng Vỹ và nói: ‘’Ðây mới xứng đáng là con nhà Tướng’’. Nhân đó các Sĩ Quan xin họ cho mai táng Chuẩn Tướng Vỹ trong sân Bộ Tư Lệnh gần cột cờ, nhưng quân việt cộng không thuận. Chiến Sĩ Sư Ðoàn phải chuyển thi thể Chuẩn Tướng Vỹ ra an táng trong rừng cao su gần Doanh Trại Bộ Tư Lệnh. Bà Vỹ và con cái đã di tản được ra ngoại quốc. Trung Tá Tuân, Quận Trưởng Bến Cát, là anh ruột của Bà Vỹ bàn với nội tướng là Bà Tuân xin đến gặp cấp chỉ huy cộng quân. Bà Tuân phải nói dối là vợ của Chuẩn Tướng Vỹ, để xin nhận xác chồng về cải táng. Bà còn đào mộ lấy xác Chuẩn Tướng Vỹ đem về chôn tại Hạnh Thông Tây, Gò Vấp.
Năm 1987, Cụ Thân mẫu của Chuẩn Tướng Vỹ ở ngoài Bắc cùng với người anh con bác là ông Lê Nguyên Hoàng vào Hạnh Thông Tây cải táng một lần nữa. Hài cốt của Chuẩn Tướng Vỹ được đem hỏa thiêu và được mang về Thờ ở Từ Ðường họ Lê tại Quê nhà ở Tỉnh Sơn Tây.
Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, người Anh Hùng của Dân Tộc Việt Nam, người Chiến Sĩ dũng mãnh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, người Anh cả đức độ của Sư Ðoàn 5 Bộ Binh đã tự sát để bảo toàn Danh Dự của một Người Chỉ Huy. Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, một đời tận tụy với Ðất Nước, đã hiến dâng cho Tổ Quốc những giọt máu đỏ thắm, tinh khôi cuối cùng của mình. Tên tuổi và tấm gương chiến đấu của người mãi mải lưu lại trong Sử Sách Việt Nam và được Dân Tộc Việt Nam ngàn đời phụng thờ hương khói.

Vui cười
Nửa đêm, một người đàn ông loạng choạng bước vào một quầy bar và gọi 3 ly rượu lớn. Người phục vụ hỏi ông ta có chuyện gì buồn vậy và được trả lời: “Tôi vừa phát hiện, con trai cả của tôi mắc bệnh đồng tính luyến ái”.
Người phục vụ gật đầu tỏ vẻ thông cảm rồi mang rượu ra cho ông khách.
Vài tháng sau, người phục vụ lại thấy ông khách cũ vào bar của mình. Lần này, ông ta gọi 5 ly rượu lớn. Người phục vụ hỏi xem ông ta gặp chuyện buồn gì và người khách đáp: – Thằng con thứ của tôi cũng mắc chứng đồng tính luyến ái.
Uống hết 5 ly rượu. Ông khách lảo đảo rời quán.
Vài tháng sau, vẫn ông khách nọ vào quán cũ và gọi 10 ly rượu. Đoán biết lần này khách hàng của mình có chuyện gì đó còn ghê gớm hơn, người phục vụ lại ân cần thăm hỏi và người đàn ông kia âu sầu tâm sự:
- Thằng út nhà tôi vừa thú nhận, nó là một thằng đồng tính luyến ái.
Người phục vụ kêu lên: – Thượng đế ơi! Chẳng lẽ trong nhà ông không có ai thích đàn bà sao?
- Có chứ! Đó là vợ tôi!  Ông khách đáp.

Tưởng Niệm Nhà Chí Sĩ Nguyễn Văn Hoàng (18/10/1947 – 31/5/1983) – Lê Minh Nguyên
Anh Nguyễn Văn Hoàng tự Nguyễn Chính Nghĩa sinh tại Biên Hoà trong một gia đình nghèo có 8 anh em mà anh Hoàng là anh cả. Anh có một vợ ba con và cha mẹ già cần phụng dưỡng.
Khi còn học tiểu học, anh vừa đi học anh vừa đi bán quà vặt để giúp gia đình. Khi học trung học, anh là học sinh xuất sắc của trường Trung Học Ngô Quyền, Biên Hoà và được giải thưởng danh dự của Tổng Thống VNCH trao tặng. Khi xong tú tài toàn phần, anh học Đại Học Khoa Học Sài Gòn, đến năm thứ ba anh được học bổng chính phủ để đi học ngành hoá học ở Algeria. Nhưng vì có cha mẹ già cần phụng dưỡng, và các con trong gia đình cần cha dạy dỗ, nên anh bỏ dở chương trình du học này để thi vào Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, Ban Tham Sự khoá 4. Trong khi học QGHC, anh còn học thêm tại Đại Học Luật Khoa Sài Gòn ban Tư Pháp. Anh tốt nghiệp QGHC năm 1969 và được bổ nhiệm làm việc ở Ty Thuế Vụ Quận I thuộc Tổng Nha Thuế Vụ.
Cuối năm 1969, thi hành lệnh động viên, anh nhập ngũ khoá 2/1969 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức và sau đó về làm việc ở Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH. Hai năm sau, anh được biệt phái về Tổng Nha Thuế Vụ và làm Trưởng Phòng Thuế Vụ Quận Gò Vấp – Lê Minh Nguyên biết anh ở đây khi về làm việc dưới quyền anh. Ban đêm anh đi làm bán thời gian trong vai trò giáo sư phụ khảo cho trường Cao Đẳng Thương Mãi Minh Trí. Chức vụ sau cùng của anh là Trung Uý Quân Lực VNCH được biệt phái về Tổng Nha Thuế Vụ và được bổ nhiệm làm Phó Ty Thuế Vụ Tỉnh Gia Định.
Trong thời gian anh làm Trưởng Phòng Thuế Vụ Quận Gò Vấp, Lê Minh Nguyên có mời anh và hai nhân viên khác tham gia Đảng Tân Đại Việt do GS Nguyễn Ngọc Huy lãnh đạo. Anh trực thuộc Biệt Bộ Lê Trí Vị, một biệt bộ công chức của TĐV.
Anh tốt nghiệp cử nhân ban tư pháp trường Đại Học Luật Khoa SG vào năm mà GS Nguyễn Văn Ngôn làm Chánh Chủ Khảo. GS Ngôn – đang hưu trí ở VN – là cố vấn của Tổng Đoàn Sinh Viên Cấp Tiến và là ca sĩ bài Đường Xưa Lối Cũ của Tổng Đoàn khi có sinh hoạt văn nghệ.
Sau ngày 30/4/1975 anh bị đi tù tại trại 15-NV ở Long Thành. Đến tháng 11/1975 vì CSVN bị lúng túng trong vấn đề thiếu chuyên viên thuế vụ phụ trách việc thu thuế ở Miền Nam nên anh được tha nhưng bị quản chế 6 tháng để làm việc cho họ trong lãnh vực chuyên môn này.
Sau 6 tháng anh xin nghỉ việc và đứng ra thành lập Tổ Hợp Nông Sản, nhưng đó chỉ là mặt nổi bên ngoài, bên trong là tổ chức chính trị có tên là Binh Đoàn Lê Văn Duyệt. Đến tháng 10/1977 anh bị bắt, nhưng đến tháng 3/1978 anh được thả ra vì CS không khai thác được gì.
Ra tù anh tiếp tục hoạt động ngấm ngầm cho đến ngày 4/2/1979 tức vào ngày mùng 4 Tết Kỷ Mùi, anh cùng một số bạn bè thành lập tổ chức kháng chiến có tên là Mặt Trận Tự Do Cứu Quốc Việt Nam, có cơ sở chính tại Sài Gòn và chính anh là chủ tịch. Mặt Trận này có địa bàn hoạt động từ miền Đông qua chiến hữu Trần Quang Mẫn, cho đến miền Tây qua chiến hữu Nguyễn Văn An ở vùng Long Xuyên, Rạch Giá.
Ngày 27/4/1979, trên đường về chiến khu miền Tây, anh và các chiến hữu bị bắt, do sự phản bội của một người trong tổ chức có tên là Nguyễn Hải Đăng chỉ điểm.
Ngày 11/8/1981 anh bị toà Sơ Thẩm Nhân Dân CSVN tại Sài Gòn kết án tù chung thân. Trước toà anh hiên ngang và dũng cảm đối đáp với chánh án, gọi họ và nhà cầm quyền Hà Nội là tay sai bán nước, đưa nhân dân vào cảnh bần cùng đói rách, bóp nghẹt tự do dân chủ. Lúc quá căm phẩn, anh đã bất thần hô to “Đả đảo Cộng Sản! Đả đảo Hồ Chí Minh!” ngay trước phiên toà. Bị sỉ nhục quá bất ngờ, CS liền dùng bán súng đánh anh quỵ ngay tại chỗ. Sau đó họ xin lệnh Hà Nội để lập phiên toà khác xử lại.
Ngày 27/5/1983 cả ba anh đều bị kết án tử hình. Trước đó, các bạn bè ở Âu Châu liên lạc với Tổ Chức Ân Xá Quốc Tế tại Luân Đôn qua văn thư số UA234/82 ngày 7/10/1982 để can thiệp và xin ân xá, nhưng CSVN không đáp ứng.
Ngày 31/5/1983, chỉ 4 ngày sau khi kết án, lúc 9:00AM sáng, CSVN đem anh Hoàng và anh Mẫn ra xử bắn tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, riêng anh An thì bị họ đánh chết trong tù.
Chị Trần Mỹ Hường, vợ anh Hoàng, phải vội vã chạy lo lót tiền cho bọn cai ngục để được nhìn mặt chồng lần cuối, nhờ đó mới biết được sự đánh đập anh Hoàng dã man trong lúc xử án, cũng như việc đánh chết anh An trong tù.
Khi biết mình bị án tử hình, anh đã xin lỗi người vợ hiền vì đã không làm tròn trách nhiệm của người chồng, người cha, và cũng tạ lỗi với cha mẹ già vì đã không còn dịp để phụng dưỡng!
Trước khi bắn, CS nhét hai quả chanh thật to vào miệng hai anh vì sợ hai anh nhục mạ chế độ và lãnh tụ của họ. Sau đó họ vùi xác hai anh và cắm lên mỗi mộ phần – được lấp đất sơ sài – một tấm bảng với hàng chữ ” Âm mưu lật đổ chính quyền”.
Chị Hoàng núp sau lùm cây xa xa để lén nhìn chồng đang bị hành huyết nhưng không dám kêu gào mà chỉ âm thầm rơi lệ vì sợ bị lộ nơi ẩn nấp!
Anh Hoàng đã hy sinh khi tuổi đời còn rất trẻ – 36 tuổi!
Khi tin anh bị bức hại được loan truyền ra hải ngoại vào khoảng tháng 11/1983, GS Nguyễn Ngọc Huy, người thầy khả kính của những sinh viên Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, đã điếu học trò mình qua bài thơ “Điếu Một Môn Sinh” nói lên sự hy sinh anh hùng của anh cho quốc gia dân tộc.
Theo thư của chị Hoàng cho biết, năm 1993 hài cốt anh Hoàng đã được chị đưa về an táng nơi quê nhà của anh ở Biên Hoà để gia đình tiện việc hương khói. Các con của chị – con trai lớn Hiển và hai con gái Hân, Hạnh – cũng rất ngoan và chăm chỉ học hành. Tất cả đều tốt nghiệp đại học, có việc làm và đều đã lập gia đình.
Anh Hoàng mất cho đến nay – 2016 – là 33 năm. Xin thành kính dâng lên anh một nén hương lòng và luôn nhớ về anh, một nguời anh hùng đất Việt.
(dựa theo bài viết của anh Nguyễn Văn Sáu, người bạn QGHC của anh Hoàng, trong Biên Khảo Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, Tập II, trang 426-431)
***
Thơ 

Điếu Một Môn Sinh – Đằng Phương Nguyễn Ngọc Huy
Houston, Texas 26/11/1983
Năm trước cùng chung một mái trường
Trong chương trình phục vụ quê hương
Thầy trao trò nhận truyền tri thức
Giúp nước trong thời đại nhiễu nhương

Đến lúc non sông cát bụi lầm
Thầy đi nơi hải ngoại xa xăm
Trò bên trong nước đầy tang tóc
Nhưng vẫn cùng chung một quyết tâm

Đập nát xiềng gông lũ bạo tàn
Làm cho toàn quốc được khương an
Trong niềm vui sống và no ấm
Cùng tự do về với quốc dân

Nhưng giữa phong ba nổi bất ngờ
Trên đường tranh đấu rủi sa cơ
Trò đà ngã gục ngày hôm ấy
Và chết hiên ngang dưới bóng cờ

Nghe tin trò đã phải hy sinh
Xao xuyến trong tâm mối nghĩa tình
Thầy thấp nén hương thờ liệt sĩ
Cho nhà ái quốc cựu môn sinh

Trên con đường giải phóng nhơn dân
Còn có bao người quyết dấn thân
Diệt lũ hung tàn, xây đất nước
Suối vàng trò hãy cứ an tâm

Ngày Tưởng Nhớ Các Anh Hùng Liệt Sĩ Việt Nam: Sợi Dây Ðoàn Kết Thiêng Liêng Của Người Việt Hải Ngoại – Vĩnh Liêm

Hai bài thơ “Anh Hùng Vô Danh” và “Ngày Tang Yên Báy” của Thi sĩ Ðằng Phương trong thập niên 40 đã làm say mê giới sinh viên, thanh niên, học sinh yêu nước cùng thời và các thập niên kế tiếp. Riêng bài thơ “Anh Hùng Vô Danh” đó mới chỉ ca tụng và vinh danh các “Anh Hùng Vô Danh” mà thôi. Vậy, còn những “Anh Hùng Hữu Danh” thì sao? Tôi chỉ đọc được một số ít bài thơ vinh danh các vị Anh Hùng Liệt Sĩ Hữu Danh như: Khóc Nguyễn Thái Học của Nhượng Tống, Tưởng Niệm Nguyễn Thái Học của Nguyễn Phan An, và Hoài Niệm Anh Linh Nhượng Tống của Nguyễn Phan An. Các vị Anh Hùng Liệt Sĩ Hữu Danh của Việt Nam, từ Ngày Tang Yên Bái cho đến nay thì rất đông; không còn dừng lại ở con số 13, mà đã có trên 58 hoặc hơn thế nữa! Tiếc vì không có phương tiện để sưu tầm thêm tài liệu, nên tôi chỉ có thể liệt kê ra đây các vị Anh Hùng Liệt Sĩ Hữu Danh mà tôi có được tài liệu trong tay.
* Ngoài cái chết anh hùng lẫm liệt của Nguyễn Thái Học (Ðảng Trưởng Việt Nam Quốc Dân Ðảng), còn có các nhà cách mạng anh hùng đã hy sinh vì đại nghĩa dân tộc, như: Trương Tử Anh (Ðảng Trưởng Ðại Việt Quốc Dân Ðảng), Lý Ðông A (Ðảng Trưởng Ðại Việt Duy Dân Ðảng), Ðức Huỳnh Phú Sổ (Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo/sáng lập Dân Xã Ðảng), và Nguyễn Tường Tam (Ðảng Trưởng Ðại Việt Dân Chính Ðảng).
* Các vị Anh Hùng Liệt Sĩ từ năm 1930 tới nay, có thể kể:
a) 4 Liệt sĩ VNQDÐ bị Pháp hành quyết ngày 8/3/1930 tại pháp trường Yên Bái: Ngô Hải Hoằng (Binh Ðoàn Yên Bái), Nguyễn Thanh Thuyết (Binh Ðoàn Yên Bái), Ðặng Văn Lương (nông dân), và Ðặng Văn Tiệp (nông dân).
b) 12 Liệt sĩ VNQDÐ bị Pháp hành quyết ngày 17/6/1930 tại pháp trường Yên Bái (bên cạnh Ðảng Trưởng Nguyễn Thái Học): Bùi Tử Toàn, Bùi Văn Chuẩn, Nguyễn An, Hà Văn Lạo, Ðào Văn Nhít, Ngô Văn Du, Nguyễn Ðức Thịnh,  Nguyễn Văn Tiềm, Ðỗ Văn Sứ, Bùi Văn Cửu, Nguyễn Như Liên, và Phó Ðức Chính.
c) Các Liệt sĩ và Anh hùng trong trận Hải Chiến Hoàng Sa năm 1974: Ngụy Văn Thà (HQ Trung Tá, HQVNCH), Nguyễn Thành Trí (HQ Thiếu Tá, HQVNCH), Lê Văn Tây (Trung sĩ Vận chuyển, HQVNCH), Ðinh Hoàng Mai (Trung sĩ Cơ khí, HQVNCH)…
d) Từ Tháng 3 năm 1975 đến nay (hoặc tuẩn tiết, hoặc bị VC hành quyết):
(1)- Các Anh hùng tuẩn tiết: Bùi Tào bí danh Ðỗ Phú (Bí Thư xã đảng bộ Kỳ Sanh VNQDÐ, quận Lý Tín, tỉnh Quảng Tín), Tướng Nguyễn Khoa Nam (QÐ IV), Tướng Lê Văn Hưng (QÐ IV), Tướng Lê Nguyên Vỹ (SÐ 5 BB), Tướng Trần Văn Hai (SÐ 7 BB), Tướng Phạm Văn Phú (QÐ II), Trung Tá Trần Văn Long (BTL/CSQG), HQ Thiếu Tá Lê Anh Tuấn (Chỉ Huy Trưởng Giang Ðoàn 43 Ngăn Chận kiêm CHT Căn Cứ Hải Quân Tuyên Nhơn, quận Tuyên Nhơn, tỉnh Mộc Hóa), Nguyễn Sơn Trung (Bí Thư xã đảng bộ VNQDÐ kiêm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Xã Sơn Trung, quận Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam;
(2)- Các Liệt sĩ bị VC hành quyết: Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn (Tỉnh Trưởng Chương Thiện), Trần Văn Bá (Kháng Chiến), Hồ Thái Bạch (Kháng Chiến), và Lê Quốc Quân (Kháng Chiến).
e) Các Liệt sĩ VNQDÐ bị VC hành quyết qua các cuộc nổi dậy chống bạo quyền VC sau năm 1975 (Theo tài liệu của Vietnam Helsinki do Ô. Trần Tử Thanh cung cấp): Trần Quang Vinh (Thiếu Úy CTCT, Ban Mê Thuột 1976), Trần Hoài Hà (Ban Mê Thuột 1976), Huỳnh Trung Thẩm (Ðà Nẵng 1978), Trần Ngọc Vân (Ðà Nẵng 1978), Trương Văn Hải (Ðà Nẵng 1978), Bùi Ðình Luyện (Tuy Hòa 1979), Nguyễn Ðức Năng (Tuy Hòa 1979), Nguyễn Văn Năng (Tuy Hòa 1979), Nguyễn Hiền (Vụ án S20 VNQDÐ, Ðà Nẵng 1979), Nguyễn Khánh (Vụ án S20 VNQDÐ, Ðà Nẵng 1979), Nguyễn Sĩ (Vụ án S20 VNQDÐ, Ðà Nẵng 1979), Nguyễn Văn Chánh (Vụ án S20 VNQDÐ, Ðà Nẵng 1979), Nguyễn Văn Nhung (Vụ án S20 VNQDÐ, Ðà Nẵng 1979) , Phan Văn Xuân (Vụ án S20 VNQDÐ, Ðà Nẵng 1979), Nguyễn Văn Hoàng1 (Mặt Trận Dân Tộc Phục Quốc/VNQDÐ, Thủ Ðức 1983), Nguyễn Văn Ðối (Quảng Nam, không rõ năm), Nguyễn Văn Liên (Quảng Nam, không rõ năm), Bùi Ðình Mậu (Chủ tịch Xã Sơn Hòa, Quảng Ngãi, không rõ năm), Bùi Phùng Nguyên (Chủ tịch Xã Sơn Hương, Quảng Ngãi, không rõ năm), và Nguyễn Hồng Sơn (Quế Sơn, Tiên Lãnh, Quảng Nam, không rõ năm).
Dở lại trang sử Việt cận đại, ngày 17 tháng 6 năm 1930 đánh dấu một trang sử anh hùng lẫm liệt của các nhà cách mạng Việt Nam: 13 vị anh hùng liệt sĩ Việt Nam Quốc Dân Ðảng (VNQDÐ) lên máy chém của Pháp tại pháp trường Yên Bái. Ngày đó thường được gọi là NGÀY TANG YÊN BÁI.
Tiếp nối tinh thần Anh hùng Nguyễn Thái Học và 12 Liệt sĩ VNQDÐ, nhà cách mạng Nguyễn Tường Tam cùng một số đồng chí trong nhóm Tự Lực Văn Ðoàn thành lập Ðại Việt Dân Chính Ðảng (ÐVDCÐ) năm 1940. Cùng năm đó, nhà cách mạng Trương Tử Anh sáng lập Ðại Việt Quốc Dân Ðảng (ÐVQDÐ). Kế đến, năm 1942, nhà cách mạng Lý Ðông A (tức Nguyễn Hữu Thanh) sáng lập Ðại Việt Duy Dân Ðảng (ÐVDDÐ). Tháng 5 năm 1945, ba Ðảng cách mạng (Việt Nam Quốc Dân Ðảng, Ðại Việt Dân Chính Ðảng và Ðại Việt Quốc Dân Ðảng) thống hợp lại thành một, với danh xưng mới là Quốc Dân Ðảng. Sau cùng là Ðảng Việt Nam Dân Chủ Xã Hội (gọi tắt là Việt Nam Dân Xã Ðảng hay Dân Xã Ðảng) do Ðức Huỳnh Phú Sổ (Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo) thành lập ngày 21 tháng 9 năm 1946. Chỉ trong vòng 6 năm mà đã có tới 4 Ðảng cách mạng Việt Nam ra đời!
Nhưng tiếc thay! Ða số các Ðảng Trưởng đều bị Việt Minh (Cộng Sản) ám hại! Năm 1946, Ðảng Trưởng Trương Tử Anh bị Cộng sản thủ tiêu và Ðảng Trưởng Lý Ðông A bị Cộng Sản sát hại ở Hòa Bình (Bắc Việt). Ở trong Nam, Việt Minh chủ trương ám hại Ðức Huỳnh Phú Sổ ngày 16 tháng 4 năm 1947 tại Ðốc Vàng (Ðồng Tháp).
Cộng sản Bắc Việt cai trị Miền Bắc từ tháng 7 năm 1954 nhưng vẫn chưa thỏa mãn tham vọng bành trướng chủ nghĩa Cộng sản, cho nên chúng chủ trương xâm nhập và thôn tính Miền Nam bằng mọi giá. Cuộc chiến Quốc-Cộng suốt 20 năm dài là cuộc chiến tương tàn thảm khốc nhất lịch sử, đã làm tiêu hao biết bao nhiêu sinh mạng và tài sản của cả hai miền Nam-Bắc! Ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhờ thế lực Nga-Tàu và chính sách thay đổi chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ nên Cộng Sản Bắc Việt mới cưỡng chiếm được Miền Nam, đưa đất nước vào con đường khốn cùng và đen tối nhất trong lịch sử Việt.
Mặc dù có lệnh đầu hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh, nhưng các vị tướng lãnh, sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ QLVNCH không cam chịu đầu hàng nhục nhã và cũng không tìm lối thoát ra ngoại quốc để an thân, mà quyết tâm ở lại để tuẩn tiết hoặc chiến đấu cho tới phút cuối! Các vị anh hùng tuẩn tiết năm 1975 và nhiều năm sau đó đã được đồng bào luôn tưởng nhớ và vinh danh. TINH THẦN DŨNG CẢM BẤT KHUẤT BẤT DIỆT của các Anh hùng Liệt sĩ chắc chắn sẽ được Tổ Quốc và đồng bào đời đời tri ân.
Vậy, trước những cái chết hào hùng lẫm liệt ấy, các Ðảng Cách Mạng Việt Nam và Tôn Giáo Dân Tộc phải làm gì và có hành động ra sao để tưởng nhớ đến công lao của các bậc tiền nhân, các vị Anh Hùng Liệt Sĩ Dân Tộc, cùng các vị Giáo Chủ Tôn Giáo Việt Nam (Cao Ðài và Phật Giáo Hòa Hảo)?
Muốn noi gương tiên liệt, thế hệ chúng ta và hậu duệ có nhiệm vụ ưu tiên là nên tổ chức NGÀY TƯỞNG NHỚ CÁC ANH HÙNG LIỆT SĨ VIỆT NAM hàng năm. Việc tưởng nhớ và noi gương các Anh Hùng Liệt Sĩ Việt Nam là nhiệm vụ thiêng liêng của tất cả con dân dòng Việt, là hành động “uống nước nhớ nguồn” thiết thực và hữu ích, chứng tỏ rằng chúng ta không phải là những kẻ vong ơn bội nghĩa. NGÀY TƯỞNG NHỚ CÁC ANH HÙNG LIỆT SĨ VIỆT NAM sẽ là hình ảnh tốt đẹp được in dấu trong lòng mọi con dân Việt ở hải ngoại cũng như ở quốc nội; đồng thời nói lên tinh thần đoàn kết cùng ý chí kiên trì quật khởi của toàn dân Việt.
Ðây cũng là sợi dây đoàn kết thiêng liêng, mặc dù vô hình nhưng nó sẽ gắn chặt chúng ta –  những người Việt ở hải ngoại cũng như ở quốc nội – trong tinh thần ái quốc, cách mạng vì Dân Tộc, Dân Quyền và Dân Sinh: ĐỘC LẬP – TỰ DO – HẠNH PHÚC.
(Ðức Phố, 17-06-2008)
Ghi chú của BBT:
1 ): Nguyễn Văn Hoàng: đảng viên Tân Đại Việt, bị vc xử bắn. GS Nguyễn Ngọc Huy có làm bài thơ khóc 

Vui cười
Trong một bệnh viện tâm thần: thằng điên 1 đi chơi với thằng điên 2, thằng điên 1 bị té xuống hồ nước thằng điên 2 thấy vậy lao xuống cứu. Sáng hôm sau bác sĩ điều trị gọi thằng điên 2 lên thông báo: anh có 1 tin buồn và 1 tin vui. Tin vui là hành động cứu người đã chứng tỏ anh hết điên và anh sắp đc ra viện, tin buồn là người anh cứu hôm qua đã treo cổ tự tử chết.
Anh điên 2 liền nói: Nó đâu có tự tử, tui treo nó lên đó cho nó khô đấy chứ!!!!!

Một cậu bé 6 tuổi khoe với mẹ rằng:  – Mẹ biết không? Buổi sáng đi xe bus cùng bố con đã nhường chỗ cho một phụ nữ! 
Mẹ cậu khen: – Con giỏi lắm, con đã ra dáng một chàng trai rồi đấy! Mẹ rất tự hào về con! Người mẹ mặt tươi rói, rạng ngời hạnh phúc trước đứa con ngoan.
Một lát sau chợt nhớ ra điều gì, người mẹ hỏi:  – À… con 6 tuổi không phải mua vé mà cũng có ghế ngồi ư? 
- Dạ không, không phải ghế. Trước đó con ngồi trên đùi bố!

Hai thằng sinh viên một tên là Nghiêm sinh viên Bách khoa, một là Tỉnh sinh viên Học viện tài chính gặp nhau trên đường.
Nghiêm  hỏi :  Tỉnh mày lấy đâu ra cái xe đạp đẹp thế ?
- À, bữa trước tao đang đi bộ trên đường thì tự nhiên có một con nhỏ học cùng trường phóng xe đạp này tới. Nó quăng xe xuống, cởi phăng hết đồ đạc trên người rồi nằm ệch xuống bãi cỏ và nói với tao : – Anh ơi, em cho anh tất cả những gì anh muốn. ….
-Nghêm nói: Mày chọn xe đạp là đúng đấy, đằng nào thì mày cũng ko mặc vừa quần áo của nó …

Hai con khỉ đi vào một quán bar và gọi hai cốc bia. Nhân viên phục vụ chưa bao giờ bán bia cho khỉ nên anh ta rất ngạc nhiên chạy lên lầu hỏi ý kiến ông chủ:
- Thưa ông! Có hai con khỉ ở dưới nhà đang gọi bia! Tôi phải làm gì bây giờ?
- Thì cứ phục vụ chúng nó đi, đồ ngu. Ồ, nhưng chờ đã nào. Chúng nó chắc không biết gì đâu, hãy tính giá gấp đôi nhé!
- Anh phục vụ chạy xuống lại và mang hai cốc bia cho những con khỉ và tính tiến gấp đôi. Tối hôm đó, hai con khỉ lại tới uống bia, thấy vậy, anh phục vụ nói: Ở nhà hàng chúng tôi có ít khỉ lui tới lắm…
- Con khỉ trả lời: Với cái giá cắt cổ như thế thì điều đó có gì là lạ đâu!!!

Các quốc gia cần tuân thủ luật chơi ở châu Á – Gareth Evans


Sự phiêu lưu của Trung Quốc ở Biển Đông đã thúc đẩy một sự thay đổi trong việc hoạch định chính sách của Australia đáng được quốc tế chú ý rộng rãi. Bằng cách coi việc duy trì một “trật tự toàn cầu dựa trên luật lệ” là một ưu tiên chiến lược cốt lõi, Sách trắng Quốc phòng mới của Australia đã sử dụng cách diễn đạt không thường thấy trong các cuốn sách trắng quốc phòng của quốc gia này. Điều đặc biệt ngạc nhiên hơn là việc nó xuất phát từ một chính phủ bảo thủ thường sẵn sàng đi theo bất kỳ con đường nào Hoa Kỳ chọn.
Australia muốn có một nền tảng khả dĩ để thách thức những yêu sách của Trung Quốc, và nền tảng này không nên bị diễn giải như chỉ là một sự khúc xạ thụ động quan điểm của Hoa Kỳ. Với một nước đang cố gắng – giống như các nước khác trong khu vực – tránh những sự lựa chọn một mất một còn giữa đối tác chiến lược là Hoa Kỳ, và đối tác thương mại là Trung Quốc, từ ngữ trong Sách trắng đã được lựa chọn hết sức khéo léo và xứng đáng để học hỏi.
Phần hấp dẫn của một “trật tự toàn cầu dựa trên luật lệ” là nó sẽ ràng buộc tất cả các bên liên quan. Những nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ, không giống phần lớn còn lại của thế giới, không thấy sự hấp dẫn cỗ hữu của khái niệm đó. Mặc dù họ – giống như những người khác- lên tiếng ủng hộ nó, nhưng việc sẵn sàng bị giới hạn bởi luật lệ quốc tế không phải là một phần DNA của các quan chức Hoa Kỳ.
Cuộc xâm lược Iraq năm 2003 vẫn là chứng cứ quan trọng nhất. Nhưng còn những sự kiện khác, bao gồm việc vượt quá (cùng với Anh và Pháp ) sự uỷ quyền của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc ở Lybia năm 2011, và như những gì Jessica Mathews đã miêu tả là “bãi đất hoang cho những cam kết đa phương” trong cách tiếp cận của Hoa Kỳ đối với các hiệp ước, bao gồm Hiệp định về đa dạng sinh học, Hiệp ước cấm thử hạt nhân toàn diện, Nghị định thư về tra tấn, và liên quan nhất tới Biển Đông là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS). Sự “chỉ trích” trực tiếp trong Sách trắng Quốc phòng Australia là dành cho Trung Quốc. Cho dù điều gì đang diễn ra ở Biển Đông thì Trung Quốc cũng cho thấy không tôn trọng một trật tự toàn cầu dựa trên luật lệ. Tuân theo các luật lệ sẽ đồng nghĩa với một vài thay đổi trong cách hành xử của Trung Quốc.
Đầu tiên, nó sẽ có nghĩa là Trung Quốc phải giải thích rõ ràng những yêu sách chủ quyền cụ thể, trên cơ sở sự sử dụng lâu dài hoặc sự chiếm giữ các đảo có thể có người ở, tại quần đảo Hoàng Sa hoặc Trường Sa hoặc những nơi khác. Khi những yêu sách đó chồng lấn với những yêu sách của các nước khác, như phần lớn các yêu sách hiện nay, Trung Quốc phải sẵn sàng giải quyết chúng, ưu tiên qua phân xử hoặc trọng tài quốc tế –  điều mà cho đến nay Trung Quốc vẫn phản đối mạnh mẽ –  hoặc ít nhất bằng đàm phán thực sự mang tính thỏa hiệp có đi có lại.
Thứ hai, Trung Quốc sẽ phải từ bỏ yêu sách “đường chín đoạn” như là cơ sở không chỉ cho những yêu sách chủ quyền liên quan đến những phần lãnh thổ ở bên trong đường này, mà còn cho những yêu sách kém rõ ràng như về “vùng biển lịch sử” hoặc “ngư trường truyền thống của Trung Quốc”. Do tàu cá Trung Quốc đang liên tục xâm phạm vào khu vực mà cho đến nay là vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý không bị tranh chấp của các nước khác theo UNCLOS, những yêu sách này đang gây ra sự xích mích thực sự với các quốc gia như Indonesia.
UNCLOS – giờ được chấp nhận rộng rãi như là thông luật quốc tế thậm chí bởi những quốc gia chưa tham gia, như là Hoa Kỳ – là bộ khung (pháp lý) duy nhất chấp nhận được để giải quyết những vấn đề trên. Thậm chí nếu các yêu sách chủ quyền hiện tại của Trung Quốc đối với các đảo cụ thể có người ở được chấp nhận, thì vùng lãnh hải 12 hải lý, và vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý tính từ các đảo này, cộng lại cũng không chiếm đến 80% Biển Đông như đường chín đoạn của Trung Quốc hiện nay đang bao trùm.
Thứ ba, Trung Quốc sẽ cần phải nghiêm túc hạn chế các hành động của mình liên quan đến các bãi san hô và bãi cạn, trước đây chưa bao giờ có thể có người sinh sống được, nơi mà nước này đang cải tạo lại, xây dựng các đường băng và các công trình có khả năng sử dụng cho mục đích quân sự, và đang nỗ lực ngăn chặn các nước khác sử dụng các vùng nước và không phận lân cận. Luật quốc tế cho phép một vài công việc cải tạo như thế – như Philippine, Việt Nam, và Malaysia đã làm những năm qua, mặc dù ở một quy mô nhỏ hơn nhiều. Nhưng nó sẽ không thể chấp nhận bất kỳ sự sử dụng nào cho mục đích quân sự, hoặc chấp nhận một “khu vực an toàn” lớn hơn 500 mét xung quanh những công trình đó – tức không chấp nhận một vùng lãnh hải, EEZ, “vùng nhận diện phòng không”, hoặc bất kỳ cái gì khác (xung quanh các đảo nhân tạo đó).
Thứ tư, Trung Quốc nên giảm nhẹ quan điểm của mình rằng không tàu hoặc máy bay nước ngoài nào có thể tham gia giám sát hoặc thu thập tình báo không chỉ trong khu vực lãnh hải của mình, điều mà luật quốc tế đã quy định rõ ràng, mà còn trong toàn bộ EEZ, điều mà lập luận của Trung Quốc là không hoàn toàn mạnh mẽ. Bám chặt vào quan điểm này làm kéo dài một rủi ro thường trực là xảy ra các sự cố mang tính khiêu khích.
Chừng nào Trung Quốc còn từ chối chơi theo luật chơi quốc tế, thì các nước khác còn có quyền kháng cự, bao gồm việc cho máy bay bay qua hoặc cho tàu thực hiện các “hoạt động tự do hàng hải” mà Hoa Kỳ đang tiến hành, và Australia cùng các nước khác nên cố gắng làm theo một cách riêng rẽ. Sự khẳng định của Trung Quốc rằng nước này không có ý định gây cản trở các tuyến đường hàng hải và đường bay thương mại không nên được tin tưởng, bởi làm khác đi sẽ chẳng khác gì lấy tay vả miệng mình. Nhưng cách hành xử của Trung Quốc đang thử thách giới hạn của sự cảm thông và kiên nhẫn của khu vực và quốc tế.
Điểm hấp dẫn còn lại của việc nhấn mạnh một “trật tự toàn cầu dựa trên luật lệ” trong chính sách của Australia là việc nguyên tắc này áp dụng cho chính Australia – bởi nó sẽ áp dụng cho bất kỳ quốc gia nào chấp nhận cách diễn giải này. Nói một cách nghiêm túc, chúng ta phải nói đi đôi với làm, bằng cách chấp nhận các nghĩa vụ và trách nhiệm quốc tế – giống như giúp chấm dứt các tội ác tàn bạo ở nước ngoài  – điều nhất quán với những tuyên bố của chúng ta rằng Úc là công dân quốc tế tốt nhưng lại không phục vụ cho một lợi ích truyến thống trực tiếp nào về kinh tế hoặc an ninh quốc gia.
Với trường hợp của Australia, điều này nghĩa là cần phải nghĩ lại về một vài nỗ lực của chúng ta nhằm lảng tránh Toà án Công lý Quốc tế và các cơ chế nhất định để giải quyết tranh chấp theo UNCLOS.[1] Trong thế giới chưa hoàn hảo này, có một sự bao dung đáng kể đối với các hành xử chưa hoàn hảo. Nhưng cách hành xử đạo đức giả luôn luôn phản tác dụng. Rao giảng các chuẩn mực của một trật tự dựa trên luật lệ cho người khác, nhưng bản thân lại rụt rè áp dụng một vài quy tắc đó cho bản thân, không phải là hình ảnh tốt.
Gareth Evans là Hiệu trưởng trường Đại học Quốc gia Australia, đồng Chủ tịch của Trung tâm toàn cầu về Trách nhiệm Bảo vệ. Ông cũng từng là Chủ tịch của Nhóm nghiên cứu Khủng hoảng Quốc tế từ năm 2000 đến năm 2009, và giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao Australia từ năm 1988 đến năm 1996.
Đào Duy Tùng biên dịch | Lê Hồng Hiệp hiệu đính
Dân Tộc Sinh Tồn – GS Nguyễn Ngọc Huy 
Tổng luận về những lý thuyết chánh trị đã lưu hành
Loài người là một giống khôn ngoan, biết suy nghĩ, biết lý-luận. Khi đã sống chung nhau thành xã-hội và có một trình-độ trí-thức khả-quan rồi, lúc nào họ cũng tìm cách biện-minh cho những hành-động của mình. Vì thế, những phong-trào chánh-trị muốn lôi kéo được quần-chúng theo mình, cũng như những tổ-chức chánh-trị muốn đứng vững được, đều phải lấy một hệ-thống lý-luận làm nền tảng. Những lý-thuyết từ xưa đến nay hướng-dẫn các đoàn-thể con người do đó mà phát-sanh.
Những lý-thuyết này đã càng ngày càng tiến-hóa theo sự mở mang của trí-thức người. Từ những ý-tưởng thô-sơ của các bộ-lạc dã-man, nó lần lần đi đến trình-độ những chủ-nghĩa có nhiều lý-luận rườm rà và chặt chẽ. Song song với sự tiến-hóa về mặt biện-luận, ta lại còn có thể nhận thấy sự hợp-lý-hóa lần cái nền tảng làm gốc cho sự suy-luận nữa. Sau một thời-gian dày dặc qui-tập tất cả các luận-cứ của mình quanh “ý muốn của trời “, con người đã biết nhận-thức sự quan-trọng của chính mình và lấy mình làm trung-tâm cho sự hoạt-động xã-hội
Bắt đầu từ thế-kỷ thứ 17, chủ-trương thần-quyền đã lần lần bị đưa ra khỏi vòng suy-luận chánh-trị. Tuy hiện giờ nó hãy còn thế-lực ở nhiều nơi, những phần-tử văn-minh của nhơn-loại đã không ít thì nhiều, thoát -ly khỏi sự chi-phối của nó. Từ đó trở đi, nền tư-tưởng chánh-trị của người đã tiến-triển một cách hết sức nhanh chóng và đưa đến cho xã-hội loài người những quan-điểm hoàn-toàn mới mẻ. Tuy-nhiên, giữa các lý-thuyết quan-trọng đã kế-tiếp nhau xuất-hiện trong mấy thế-kỷ sau này, ta có thể nhận thấy mối liên-quan chặt chẽ.
Mở đầu cho phong-trào đổi mới trong đời sống chánh-trị là lý-thuyết dân-chủ. Nhận thấy chế-độ quân-chủ cũ dựa vào những sự bó buộc vô-lý và những điều bất-công, nó nêu ra hai nguyên-tắc tự-do và bình-đẳng, hô-hào lật đổ chế-độ cũ và đem thay vào đó, một chế-độ dân-chủ đặt nền tảng trên sự tự-do và bình-đẳng chánh-trị của mọi công-dân.
Nhưng sự tự-do mà chế-độ dân-chủ ban cho mọi người đã gây ra một sự cạnh-tranh ráo riết và biến chế-độ chánh-trị dân-chủ thành ra chế-độ tư-bản trong đó sự bất-bình-đẳng và sự bóc lột đa-số quần-chúng lắm khi cũng chẳng kém gì trong chế-độ quân-chủ chuyên-chế khi xưa.
Để hủy-diệt sự bất-bình-đẳng và sự bóc lột ấy, lý-thuyết xã-hội duy-vật chủ-trương thâu hết tài-sản làm của chung hầu thực-hiện một sự bình-đẳng kinh-tế cần-thiết, bổ-túc cho sự bình-đẳng chánh-trị. Sự bất-đồng ý-kiến giữa các nhà chánh-khách theo lý-thuyết xã-hội duy-vật làm cho phong-trào xã-hội phân ra làm nhiều nhánh : chủ-nghĩa xã-hội, chủ-nghĩa Cộng-sản Đệ Tam và chủ-nghĩa Cộng-sản Đệ Tứ, cùng theo đuổi một mục-đích chung, nhưng lại xung-đột nhau mãnh-liệt vì không thỏa-thuận được với nhau về phương-pháp cần phải theo để đạt mục-đích ấy.
Lý-thuyết xã-hội duy-vật chủ-trương hủy-diệt quyền tư-hữu và muốn đặt tất cả mọi người dưới một trật-tự chung làm cho ai nấy đều bình-đẳng nhau. Nhưng làm như thế, nó lại phạm vào sự tự-do cá-nhơn của con người. Vì đó, nó xung-đột với lý-thuyết dân-chủ. Một bên, lý-thuyết dân-chủ chú-trọng vào sự tự-do cá-nhơn, một bên, lý-thuyết xã-hội lấy sự bình-đẳng kinh-tế làm cốt yếu, thành ra tranh-đấu lẫn nhau, gây ra nhiều sự rối loạn trong các quốc-gia tân-tiến.
Ở những nước Âu-châu chưa có một truyền-thống dân-chủ mạnh-mẽ và không có đủ phương-tiện để giải-quyết những vấn-đề xã-hội trong nội-bộ, sự rối loạn này làm phát-sanh một phong-trào phản-động lại. Đó là phong-trào phát-xít và phong-trào quốc-xã, dựa vào chủ-nghĩa phát-xít và chủ-nghĩa siêu-tộc, đem nguyên-tắc tinh-thần để đối lại nguyên-tắc vật-chất của lý-thuyết dân-chủ và xã-hội, và lấy sức mạnh sáng suốt của một thiểu-số hoạt-động chống lại sức mạnh mù quáng của đa-số thụ-động. Nhưng vì quá ghét thuyết tự-do bình-đẳng, phong-trào phát-xít và quốc-xã đi đến một sự quá-khích trái ngược lại và nêu ra những thuyết võ-lực phũ phàng, làm cho thế-giới bất-bình.
Ở Á-đông, những nước thuộc-địa và bán-thuộc-địa tìm cách dung-hòa quan-niệm tự-do và bình-đẳng cá-nhơn với một kỷ-luật quốc-gia chặt chẽ, đủ sức đánh đổ thế-lực những cường-quốc bóc lột mình, đủ sức đem sự tự-do về cho dân-tộc và đưa dân-tộc lên ngang hàng với các cường-quốc. Do đó, chủ-nghĩa Tam Dân và Tân-Dân ra đời.
Tất cả những lý-thuyết hay chủ-nghĩa kể trên này đều quây quần chung quanh lý-tưởng tự-do và bình-đẳng, hoặc để tán-thành, hoặc dể hạn-chế, hoặc để bài-xích. Bởi đó, nó kế-tiếp nhau và sửa đổi nhau một cách hợp-lý. Nhờ lợi-dụng được những kinh-nghiệm của những xã-hội Âu Mỹ trong sự thực-hiện lý-tưởng dân-chủ và xã-hội, những chủ-nghĩa xuất-hiện sau cùng : chủ-nghĩa Tam Dân và chủ-nghĩa Tân-Dân đã tránh nhiều nhược-điểm của các lý-thuyết ra đời trước nó, và có một tánh-cách tổng-hợp rất hay. Tuy vậy, nó vẫn chưa được hoàn-mỹ, vì cũng như những lý-thuyết đã ra đời trước nó, nó không bao-quát được cả đời sống xã-hội của loài người mà chỉ là phản-ảnh của thời-đại và địa-phương đã sanh ra nó.
Sự tương-quan chặt chẽ giữa các lý-thuyết xuất-hiện từ thế-kỷ thứ 17 với hoàn-cảnh phôi-thai ra nó thật là rõ rệt. Ta có thể bảo rằng những lý-thuyết ấy chỉ xuất-hiện để đối-phó với một tình-trạng đặc-biệt của xã-hội. Không có một chế-độ quân-chủ khắc-nghiệt đặt nền tảng trên những sự bất-bình-đẳng, những sự bó buộc vô-lý thì không có ly-thuyết dân-chủ. Không có một xã-hội tư-bản gây ra một sự bất-công quá đáng giữa chủ-nhơn và thợ thuyền ở thế-kỷ thứ 19 thì không có lý-thuyết xã-hội duy-vật. Khi trận Âu-chiến 1914-1918 chấm dứt, nước Ý, nếu không bị rối loạn vì những cuộc bạo-hành của các đảng-viên xã-hội thì không thấy chủ-nghĩa phát-xít. Người Đức, nếu không bị Đồng-minh uy-hiếp thái-quá sau khi thất trận thì không đổ xô theo chủ-nghĩa siêu-tộc để phản-ứng lại. Ở Á-đông, giá như đế-quốc Trung-Hoa sớm thức tỉnh, biết duy-tân tự-cường như người Nhựt-bổn thì chủ-nghĩa Tam Dân không xuất-hiện được ; và nếu cuộc cách-mạng của Trung-Hoa Quốc-dân-đảng thành-công ngay từ lúc đầu, nạn quân-phiệt hẳn đã tránh được cuộc xung-đột quốc-cộng chưa chắc đã thất-lợi cho cánh quốc-gia, và chủ-nghĩ Tân-Dân cũng không phát-triển được.
Vậy, những lý-thuyết lưu-hành từ thế-kỷ thứ 17 đều là sản-phẩm của thời-cuộc. Nó được đặt ra để giải-quyết những vấn-đề nhứt-định trong một tình-thế nhứt-định, nên chỉ có một tánh-cách địa-phương và tạm thời. Ra ngoài địa-phương đã sanh ra nó, hay qua khỏi thời-đại đã phôi-thai ra nó, những lý-thuyết và chủ-nghĩa ấy không còn giá-trị nữa.
Nhưng có nhà tuyên-truyền nào lại nhìn nhận rằng chủ-nghĩa mình thờ phụng chỉ có tánh-cách địa-phương và tạm-thời ? Ai ai cũng cho rằng lý-thuyết mình chủ-trương là một lý-thuyết có tánh-cách đại-đồng vĩnh-viễn, và không bao giờ họ chịu nhịn nhau.
Hiện giờ, trừ hai chủ-nghĩa phát-xít và  siêu-tộc ra, những lý-thuyết và chủ-nghĩa khác rất mực bành-trướng, nhưng không cái nào được hoàn-toàn thắng-lợi, vì không cái nào được hoàn-toàn không nhược-điểm cả. Tất cả đều dựa vào lòng tin tưởng nơi tánh tốt bẩm-sanh của con người, đều cho rằng con người sanh ra tự-do và bình-đẳng, và cùng nhắm vào mục-đích lập một thế-giới đại-đồng trong ấy người ta sống tự-do, bình-đẳng và hạnh-phúc.
Nhưng về phương-pháp cần phải thi-hành để thực-hiện cảnh thế-giới đại-đồng ấy, mỗi lý-thuyết chủ-trương một cách. Bởi thế, những người thờ phụng nó thường hay xung-đột lẫn nhau. Sự xung-đột này tự-nhiên cũng bị ảnh-hưởng của vấn-đề quyền-lợi, nhưng vai tuồng của lý-tưởng chánh-trị thật ra không phải nhỏ. Vì những xung-đột này, nhơn-loại phân năm, xẻ bảy, cấu xé lẫn nhau.
Bên trên những sự quay cuồng hỗn-loạn, bên trên những sự sát-hại thóa-mạ nhau giữa những kẻ theo những chủ-trương và lý-thuyết chánh-trị khác nhau ấy, ta luôn luôn nhận thấy một danh-từ mà ai cũng lập đi lập lại mãi như một điệp khúc :  đó là danh-từ : « tinh-thần dân-chủ ». Mọi người đều bảo rằng mình có tinh-thần dân-chủ và gán cho những kẻ khác chánh-kiến với mình cái huy-hiệu phản-dân-chủ. Những người tự xưng mình là có óc dân-chủ chơn-chánh thật là thuộc đủ hạng : từ những người Anh theo chế-độ quân-chủ lập-hiến đến những người Pháp theo chế-độ dân-chủ cộng-hòa, từ những nhà cách-mạng chủ-trương vô-chánh-phủ đến những vị độc-tài đỏ ở điện Kremlin, từ những bác thực-dân đeo dưổi một chánh-sách thuộc-địa cũ kỹ đến những nhà tư-bản muốn xây đắp bá-quyền trên đồng-bạc, tất cả đều không ngớt quảng-cáo cho óc dân-chủ của mình. Hơn thế, họ còn dự-định dân-chủ-hóa những nước « phát-xít » thất trận nữa
Nhưng ngoài những lời nói suông, có ai thật tình làm một điều gì để chứng tỏ tinh-thần dân-chủ của mình đâu ? Những dân-tộc theo  lý-thuyết dân-chủ tư-sản, cũng như những dân-tộc nằm dưới quyền thống-trị của những đảng xã-hội hay cộng-sản, đều thi-hành một chánh-sách dựa vào quyền-lợi : bành-trướng thế-lực của mình, củng-cố những vị-trí mình để phòng một trận thế-giới đại-chiến sắp tới.
Thật-tâm tin tưởng nơi nguyên-tắc dân-chủ, họa chăng chỉ có những dân-tộc nhược-tiểu, vì tinh-thần dân-chủ chơn-chánh thực-hiện được, thì họ là kẻ hưởng-lợi trước nhứt. Khốn nỗi, chánh-sách quyền-lợi của những cường-quốc đã làm cho sự tin tưởng nơi trào-lưu dân-chủ thế-giới trở thành một sự nguy-hiểm cho những dân-tộc bị cầm hãm trong vòng thế-lực của những đế-quốc thực-dân. Và như thế, ta đi đến một kết-quả kỳ quặc là lúc tinh-thần dân-chủ được người ta hô-hào tán-tụng nhứt, lại chính là lúc tinh-thần dân-chủ của nhơn-loại suy-nhược nhứt.
Ngoài ra, lại còn một điều tệ-hại nữa, là do những phương-pháp nhồi sọ của những nhà cầm-quyền, những chánh-đảng ở các nước, danh-từ tinh-thần dân-chủ đã trở nên một vị thuốc xã-hội bá-chứng. Ở nhiều nơi, dân-chúng tin tưởng rằng thế-giới chỉ cần được những nhà dân-chủ chơn-chánh lãnh-đạo là tự-nhiên trở thành tốt đẹp phong-phú. Họ cho rằng sở-dĩ họ còn khổ sở là vì chế-độ dân-chủ chơn-chánh chưa xuất-hiện. Họ ước mong rằng gần đây, chế-độ ấy sẽ mang hạnh-phúc hoàn-toàn đến cho họ, và vì thế, họ lóng tai nghe hết những kẻ mỵ-dân đủ các màu sắc.
Mánh khoé của những nhà chánh-trị chuyên-nghiệp ở chỗ họ biết lợi-dụng điểm yếu ấy. Dầu tuyên-truyền cho chủ-nghĩa dân-chủ tư-sản, cho chủ-nghĩa xã-hội, cho chủ-nghĩa cộng-sản Đệ-Tam hay cộng-sản Đệ Tứ cũng vậy, họ luôn luôn tuyên-bố rằng họ tranh-đấu cho một chế-độ dân-chủ chơn-chánh, và khi người ta chỉ rõ chỗ sai lầm của chủ-nghĩa họ tôn thờ, hoặc của chánh-sách họ đeo đuổi, họ kêu ầm lên rằng đó là phản-dân-chủ.
Những trò chơi này đã kéo dài ra lâu rồi, và nó vô cùng nguy-hại cho Tổ-quốc. Chúng ta cần phải hiểu rằng những chủ-nghĩa dựa vào những nguyên-tắc không hợp với thực-tế chỉ là những không-tưởng nguy-hiểm, và chỉ rõ những chỗ sai lầm của một chủ-trương mỵ-dân không phải là đi ngược lại quyền-lợi của quần-chúng. Chúng ta cần phải nhận-chân rằng những sự chia rẽ, những cuộc xung-đột do những chủ-nghĩa dân-chủ và xã-hội hiện đang lưu-hành đã làm cho những quốc-gia Âu-châu rối loạn. Muốn tránh nạn ấy ở nước ta, ta không thể dựa vào một chủ-nghĩa quốc-gia cổ-điển, hoặc những chủ-nghĩa phản-động quá, như chủ-nghĩa phát-xít hay chủ-nghĩa siêu-tộc. Chúng ta cũng không thể xoay quanh cái vòng lẩn-quẩn tự-do và bình-đẳng. Vì như ta đã thấy trên kia, nguyên-tắc tự-do và bình-đẳng là những nguyên-tắc mâu-thuẫn nhau và không hợp với thực-tế. Ta phải tìm một chủ-nghĩa khác, một chủ-nghĩa có những căn-bản vững chắc, hợp với bản-tánh con người, một chủ-nghĩa có thể gây được sự đoàn-kết giữa mọi người trong quốc-dân và đủ sức hướng-dẫn quốc-dân trong cuộc tranh-đấu để bảo-vệ quyền-lợi cao-cả của mình. Sự sống còn của dân-tộc ta chỉ có thể mưu-đồ được bằng cách ấy mà thôi.
Hết Phần I
PHẦN II 
CHƯƠNG  I
Sự Cần Thiết của một chủ nghĩa chánh trị hợp lý
I.- Sự hoạt động của con người
A.- Mục đích của sự hoạt động chánh trị
Theo nhà cách-mạng Trung-Hoa là Tôn Dật-Tiên thì chánh là việc của chúng-nhơn, tức là việc của mọi người, trị là quản-lý, và chánh- trị là quản-lý của tất cả mọi người. Nếu chúng ta chấp-nhận những định-nghĩa trên này thì sự phát-hiện của yếu-tố chánh-trị nhứt định là một sự-kiện vô cùng quan-trọng trong lịch-sử loài người. Nó đánh dấu cho một sự tiến-bộ lớn lao của con người, từ trạng- thái của một bầy sanh-vật hỗn-độn bước qua trạng thái một đoàn-thể sống theo một trật-tự đàng-hoàng.
Sau khi phát-hiện, yếu-tố chánh-trị luôn luôn tồn-tại với xã-hội, và sự hoạt-động chánh-trị trở thành một hoạt-động thường-trực của người. Sự hoạt-động này có thể dành riêng cho một thiểu-số. Trong các xã-hội chuyên-chế ngày xưa, những kẻ thường-dân đá động đến vấn đề chánh-sự đều bị trừng-phạt một cách nặng nề. Nhưng sự hoạt-động chánh-trị cũng có thể mở ra cho một số đông nếu không phải cho tất cả mọi người thành-niên bình-thường trong xã-hội. Nhiều chế-độ thành-lập trong mấy thế-kỷ sau này đã khuyến-khích hay ít nhứt cũng cho phép dân-chúng tham-dự đời sống chánh-trị nước mình.
Trong những người tích-cực hoạt-động chánh-trị, có những kẻ chỉ nhắm vào việc thỏa-mãn những dục-vọng cá-nhân, bảo-vệ những quyền-lợi ích-kỷ của mình hay của dòng họ mình. Cũng có nhiều người khác hoạt-động để phụng-sự một lý-tưởng cao-siêu, để làm cho đoàn-thể mình được hùng-cường, để cải-thiện đời sống người đồng-loại.
Nhưng trong trường-hợp nào cũng vậy, sự hoạt-động chánh-trị bao giờ cũng nhắm vào việc tổ-chức xã-hội, thiết-lập những cơ-quan cai-quản và kiểm-soát việc làm của dân-chúng, hạn-định sự liên-lac giữa những người sống chung nhau, nói tóm lại, là điều-khiển sự hoạt-động của tất cả mọi người trong một xã-hội.
B.- Sự quan trọng của hoạt động chánh trị đối với người
Với mục-đích như thế, tất nhiên sự hoạt-động chánh-trị phải đóng một vai tuồng rất quan-trọng trong đời sống của người. Trừ những kẻ ẩn-náu trong chốn rừng sâu núi thẳm, còn thì tất cả mọi người trong xã-hội đều bị sự chi-phối của hoạt-động chánh-trị một cách ý-thức hay vô-ý-thức. Ta có thể bảo rằng đời sống người dân nào cũng bị ảnh-hưởng của sự hoạt-động chánh-trị trong xã-hội mình.
Người ta có thể tự mình tích-cực tham-gia sự hoạt-động chánh-trị ấy, hoặc nhiệt-liệt tán-đồng chế-độ đương-hữu, và tận tâm binh vực, duy-trì nó, hoặc nhứt-định bài-xích nó, và tận-lực chiến-đấu để lật đổ nó, hoặc chấp-nhận nó trong những  đại-cương, nhưng phản-đối nó trong một số chi-tiết và cố gắng cải-thiện nó. Người ta cũng có thể vì sợ hãi, vì thiếu tinh-thần chiến-đấu mà giữ thái-độ trung-lập, không tích-cực tham-gia những hoạt-động chánh-trị trong nước, mặc dầu vẫn có ý-kiến riêng của mình về vấn-đề chánh-trị. Sau hết, người ta cũng có thể sống trong xã-hội một cách vô-ý-thức và cúi đầu phục-tùng những kẻ nắm quyền-bính, giữ một thái-độ thụ-động hoàn-toàn.
Cơ-quan nắm chánh-quyền trong một xã-hội có thể chỉ kiểm-soát một số ít hoạt-động của người và để cho đại-đa-số giữ thái-độ thụ-động. Nó cũng có thể tìm cách vận-dụng hết năng-lực của tất cả mọi người, và chi-phối đời sống cá-nhơn mỗi người một cách chặt chẽ hơn.
Nhưng trong trường-hợp nào cũng vậy, việc chánh-trị bao giờ cũng là đầu mối của tất cả những công việc khác trong xã-hội. Chính nó qui-định xu-hướng chung cho tất cả những hoạt-động của người. Những công cuộc giáo-dục, tài-chánh, hình-pháp v.v. đều tổ-chức theo một chánh-sách, tức là phải noi theo một chánh sách, tức là phải noi theo một đường lối chánh-trị rõ ràng.
Đối với những hoạt-động kinh-tế, hoạt-động để sản-xuất, phân-phối và lưu-chuyển các sản phẩm cần-thiết cho đời sống vật-chất, hoạt-động chánh-trị có những mối liên-quan chặt-chẽ. Những người theo lý-thuyết xã-hội Karl Marx vốn theo chủ-nghĩa duy-vật nên xem hoạt-động kinh-tế quan-trọng hơn hoạt-động chánh-trị. Họ cho rằng kinh-tế là cái hạ-từng cơ-sở của xã-hội, còn chánh-trị chỉ là một thượng-từng kiến-trúc. Hạ-từng cơ-sở kinh-tế chi-phối thượng-từng kiến-trúc chánh-trị rất mạnh: chính những phương-pháp sản-xuất vật-phẩm, yếu-tố chính của nền kinh-tế, qui-định cả hình-thức chánh-trị của xã-hội.
Chúng ta không thể phủ-nhận sự quan-trọng của yếu-tố kinh-tế. Trong đời sống của cá-nhơn cũng như trong đời sống các đoàn-thể, vật-chất bao giờ cũng có một ảnh-hưởng lớn lao đối với tinh-thần.
Tuy-nhiên, ở con người có học và những xã-hội mở-mang tinh-thần, dầu có bị sự chi-phối của vật-chất, cũng thường thắng thế hơn vật-chất. Do đó, khi các xã-hội đã thành hình và ổn-định, chánh-trị đã ảnh-hưởng đến kinh-tế nhiều hơn là bị kinh-tế ảnh-hưởng lại.
Nói một cách khái-quát thì hình-thức một xã-hội tùy-thuộc yếu-tố chánh-trị nhiều hơn yếu-tố kinh-tế. Chính sự sản-xuất kinh-tế cũng phải noi theo một chánh-sách do cơ-quan chánh-trị nêu ra. Vậy, dầu ta có xem kinh-tế là nền tảng của xã-hội, ta cũng không thể phủ-nhận rằng nền tảng của xã-hội, ta cũng không thể phủ-nhận rằng nền  tảng ấy lệ-thuộc vào chế-độ chánh-trị, vì chính chế-độ chánh-trị qui-định hình-thức của nền tảng đó và định hướng cho sự tiến-triển của nó.
Trong sự kiến-trúc cơ-sở xã-hội, yếu-tố kinh-tế đóng vai tuồng của những vật-liệu, còn yếu-tố chánh-trị đóng vai tuồng những bản họa-đồ hướng dẫn sự xây-dựng. Vật-liệu tự-nhiên có ảnh-hưởng đến tánh-cách tòa kiến-trúc. Một tòa kiến-trúc bằng gạch và gỗ có khác với một tòa kiến-trúc bằng đá và sắt. Nhưng chính bản họa-đồ đã làm cho những vật-liệu như nhau biến thành một ngôi mộ, một cái lăng, một miếu-đường, một cung-điện, một ngôi nhà ở hay một trụ-sở công-cộng.
Với những dụng-cụ sản-xuất và một nền tảng kinh-tế như nhau, các dân-tộc có thể được tổ-chức theo nhiều lối khác nhau. Trước trận thế-giới đại-chiến thứ nhì, nước Mỹ, nước Nga và nước Đức đều là những nước cơ-giới-hóa, có một nền kỹ-nghệ mở-mang. Nhưng nước Mỹ được xây dựng theo lý-tưởng tự-do, nước Nga theo nguyên-tắc tập-sản, còn nước Đức theo chủ-trương độc-tài, song kính nể quyền tư-hữu của người. Điều này chỉ tỏ rằng trong một xã-hội, yếu-tố chánh-trị quan-trọng hơn yếu-tố kinh-tế rất nhiều, và chính hình-thức kinh-tế phải chịu sự chi-phối mạnh mẽ của chánh-trị.
Đứng về phương-diện con người mà xét, ảnh-hưởng của chánh-trị đối với đời sống cũng quan-trọng hơn: người của một dân-tộc có một nền kinh-tế ít mở mang nhưng theo một chế-dộ chánh-trị luơng-hảo có thể sung sướng hơn người một dân-tộc có một nền kinh-tế mạnh mẽ, nhưng theo một chế-độ chánh-trị gắt gao.
Nói tóm lại, tất cả các yếu-tố xã-hội, bắt đầu từ kinh-tế trở đi, đều bị sự chi-phối của chánh-trị. Nó có thể ảnh-hưởng lại chánh-trị, song thường phải tùy-thuộc chánh-trị. Do đó, ở bất cứ thời-đại nào và địa-phương nào, việc chánh-trị có lương-hảo thì những công việc khác mới hưng-vượng được, việc chánh-trị mà hủ bại thì những công việc khác không thể nào tránh khỏi được sự suy-đồi.
Như thế, việc chánh-trị liên-quan mật-thiết đến sự an-lạc của người, và những người chú-ý đến vấn-đề xã-hội không thể không quan-tâm đến sự hoạt-động chánh-trị được. Chính những người Cộng-sản chủ-trương rằng kinh-tế quan-trọng hơn chánh-trị cũng phải tổ-chức sự tranh-đấu cách-mạng hay sự tranh-đấu để bảo-vệ chánh-quyền mình, tức là lấy sự hoạt-động chánh-trị làm vấn-đề quan-trọng nhứt cho mình.
II.- Vai tuồng xã hội của những lý thuyết và chủ nghĩa chánh trị
A.- Sự cần thiết của tư tưởng chánh trị
Người là một giống khôn ngoan, có trí-tuệ, có óc phán-đoán. Từ khi có ý-thức về đời sống của mình, người không còn hoàn-toàn tuân theo những phản-ứng tự-nhiên nữa, mà cố đặt những hành-động của mình dưới sự điều-khiển của lý-trí. Tuy hãy còn bị tiềm-thức chi-phối một cách mạnh mẽ, người đã biết cố gắng sống một cách hợp-lý. Đối với những hành-động có ảnh-hưởng sâu xa đến đời sống của người như hành-động chánh-trị, sự can-thiệp của lý-trí lại càng rõ ràng dễ thấy hơn.
Người hoạt-động chánh-trị phải tự nêu ra một mục-đích và tìm những phương-pháp để đạt mục-đích ấy. Để cho những người khác trong đoàn-thể theo mình hay ít ra cũng không phản-đối lại mình, người hoạt-động chánh-trị lại còn phải có đủ lý lẽ để biện-chánh cho mục-đích và phương-pháp ấy. Bởi đó, dầu muốn duy-trì một chế-độ cũ, muốn cải-tổ nó, thay đổi người lãnh-đạo nó hay muốn lật đổ nó để xây dựng một chế-độ mới, người đều phải có một tư-tưởng chánh-trị làm gốc. Tư-tưởng nầy giúp người hoạt-động chánh-trị những điều-kiện để thành-công. Nó nêu mục-đích người cần phải đạt, vạch rõ đường lối người phải noi theo để đạt mục-đích ấy, và giải-thích lý-do của mục-đích cùng đường lối được nêu ra.
B.- Sự xuất hiện của những lý thuyết và chủ nghĩa chánh trị
Tự ngàn xưa, những chánh-khách đã nhận thấy sự cần-thiết và sự quan-trọng của tư-tưởng chánh-trị. Bởi vậy, trong xã-hội loài người, những tư-tưởng chánh-trị đã xuất-hiện rất sớm; có lẽ đã xuất-hiện từ lúc xã-hội mới phôi-thai.
Lẽ cố-nhiên là những tư-tưởng chánh trị đầu tiên rất thô-sơ giản-dị. Nó có thể chỉ dựa vào nguyên tắc tuân thượng lịnh hay một ý-niệm mơ hồ về huyết-thống. Nhưng nó đã mở mang ra mãi theo trí-tuệ người và lần lần ghép nhau lại thành những hệ-thống suy luận rất chặt-chẽ. Những hệ-thống tư-tưởng dính dáng đến sự tổ chức xã-hội từ xưa đến nay rất nhiều, và chúng ta không sao kể cho hết được. Tuy thế, tất cả những hệ-thống quan-trọng xuất-hiện trước thế kỷ thứ 17 đều có một tánh-cách chung nhau là đặt nền tảng trên lòng tin tưởng và sợ hãi thần-minh.
Dưới những lập-luận rườm rà, với những chi-tiết khác nhau vô-cùng, ta có thể nhận thấy một ý-tưởng chung: con người do Thượng-Đế hay các vị thần-minh sanh ra và phải  phụng sự Thượng-Đế hay các vị thần-minh ấy. Người lãnh đạo xã-hội thường được xem là thuộc dòng dõi của Thượng-Đế hay thần-minh, hoặc là kẻ đại-diện Thượng Đế hay thần-minh dưới trần. Không được như thế, họ cũng là kẻ đại-diên dân-chúng để cúng tế Thượng Đế hay thần-minh. Thượng Đế và thần-minh có quyền đối với người dân như thế nào thì người lãnh-đạo xã-hội cũng phải có quyền như thế ấy. Với tư-tưởng này, người rất dễ đi đến chế-độ độc-đoán và lạm-quyền, mặc dầu những nhà đạo-đức thường dạy rằng muốn xứng đáng ở ngôi-vị mình, người lãnh-đạo xã-hội phải cố lo cho quyền-lợi của dân.
Thế-kỷ thứ 17 đã thấy phát-hiện ở Âu-châu một nền tư-tưởng chánh-trị mới, không phủ-nhận lý-tưởng thần quyền, nhưng không còn dựa vào nguyên-tắc thần-quyền mà lý luận nữa.  Nền tư-tưởng này lấy con người làm trung-tâm cho mọi hoạt-động chánh-trị và chủ-trương rằng sự tổ-chức xã-hội phải nhắm mục-đích phụng-sự con người trước hết. Đó là nền tư-tưởng dân-chủ được John Locke trình bày đầu-tiên ở Anh và Jean Jacques Rousseau với nhóm Bách-khoa truyền-bá ở Pháp, Nền tư-tưởng dân-chủ lần lần lan tràn khắp nơi trên thế giới. Ở nhiều nước, nó đã đánh bại được nền tư-tưởng thần-quyền và thiết-lập nên những chế-độ mới, đặt nguyên-tắc trên sự tự do cá-nhơn và sự bình-đẳng chánh-trị của các công-dân.
So với những lý-thuyết thần-quyền cũ, lý-thuyết dân-chủ đã tiến-bộ hơn nhiều. Tuy vậy, sự thực-hành nó đã gây ra cho người nhiều sự họa-hại. Về phương diện lý-thuyết thuần túy, nền tư-tưởng dân-chủ cũng chưa hoàn-toàn thỏa-mãn những học-giả quan-tâm đến các vấn-đề xã-hội. Vì đó, thế-kỷ thứ 19 lại thấy phát-xuất một xu-hướng mới, xu-hướng nhờ khoa-học dẫn đạo trong công việc hoạt-động chánh-trị và tổ-chức xã-hội loài người.
Phôi-thai với chủ-trương thực-nghiệm của Auguste Comte, xu-hướng này đã được cụ-thể-hóa  với lý-thuyết xã-hội duy-vật của Karl Marx. Với những lý lẽ rườm rà, với nhiều luận-cứ có bóng dáng khoa-học, với những khẩu-hiệu tranh-đấu sắc-bén, với những lý-tưởng tốt đẹp, lý-thuyết Karl Marx đã hấp-dẫn được một số đông người và thành một động-lực rất mạnh làm đảo lộn cả trật-tự hoàn-cầu. Nó đã xung-đột kịch-liệt với những chế-độ thần-quyền còn tồn tại và những chế-độ dân-chủ thành-lập trong mấy thế-kỷ sau này. Nó đã thực-hiện được chế-độ nó chủ-trương trên một phần đất khá rộng từ đầu thế-kỷ thứ 20 và làm lung lay nền tảng nhiều nước trên thế giới.
Tuy nhiên, lý-thuyết duy-vật chưa nắm được phần thắng-lợi hoàn-toàn. Sự chiến-đấu cướp chánh-quyền giữa những người tôn thờ nó và những người theo chế-độ dân-chủ, cũng như sự áp-dụng chánh-sách nó nêu ra ở những nước nó thắng-lợi đã gây ra những phản-ứng mạnh mẽ ở nhiều nơi. Trong những nước có một truyền-thống dân-chủ sâu xa vững chắc, sự phản-ứng thường có một tánh-cách tốt đẹp : nó cải-thiện được xã-hội một phần nào và bồi-bổ những khuyết-điểm của chủ-trương dân-chủ.
Những nước chưa xây dựng được một nền tảng dân-chủ vững chắc và thiếu những  phương-tiện để giải-quyết những vấn-đề xã-hội của mình đã có những phản ứng quá-khích hơn đối với sự xung đột giữa hai lý-tưởng dân-chủ và xã-hội. Những chủ-trương độc-tài phủ-nhận quyền tự-do và giá-trị cá-nhơn của người do đảng Phát-xít Ý và đảng Quốc-xã Đức nêu ra đã thắng thế, không những ở nước Ý và Đức, mà còn ở nhiều nước khác như Tây-ban-nha, Thổ-nhĩ-kỳ.
Nói một cách khái-quát, những chủ-trương phản-đối lý-thuyết dân-chủ và xã-hội cũng có đưa nhiều điều lợi-ích đến cho các dân-tộc noi theo nó, song những lợi-ích này không đủ bù vào những họa-hại nó mang đến. Vì đó, sau khi trận thế-giới đại-chiến thứ nhì kết-liễu, chế-độ độc-tài thi-hành ở các nước thua trận bị sụp đổ. Trong những nước cùng khuynh-hướng, nhưng trung lập trong trận chiến-tranh ấy, nó cũng phải cải-biến cho dịu bớt đi.
Ở những  nước thuộc-địa và bán-thuộc-địa Á-Đông, nằm dưới ách của bọn thực-dân da trắng, hoặc bị các nước da trắng uy-hiếp một cách mạnh mẽ, những lý-thuyết dân-chủ và xã-hội đã gây ra một xúc-động lớn lao. Vì đó, sau những cuộc khởi-nghĩa dựa vào tinh-thần quốc-gia thuần-túy, dân chúng những nước ấy đã biết ghép những tư-tưởng  dân-chủ và xã-hội vào chủ-trương quốc-gia của họ. Sự dung-hòa những lý-tưởng quốc-gia, dân-chủ và xã-hội đã đưa ra các chủ-nghiã Tam dân và Tân-Dân.
Đứng về mặt lý-thuyết mà nói, những chủ-nghĩa ấy tập-hợp hết những nguyện-vọng tốt-đẹp của người . Nhưng về mặt thực-hành, những người theo các chủ-nghĩa ấy hoặc nghiêng về phía chủ-trương độc-tài quốc-gia, hoặc ngã theo chủ-trương độc-tài xã-hội , thành ra các chủ-nghĩa Tam Dân và tân-dân không có được uy-tín mà đáng lẽ nó phải có.
C.-Ảnh hưởng của những lý thuyết chánh trị và chủ nghĩa chánh trị ra đời
Những tư-tưởng chánh-trị kể ra trên này đều có chứa đựng nhiều kinh-nghiệm về sự tổ-chức xã-hội .Nó đã cố tìm cách thỏa-mãn một phần những nguyện-vọng, những nhu cầu tinh thần của người .Ta có thể bảo rằng nó đã trả lời đúng những sự đòi hỏi của dân-chúng đã thấy phát-hiện nó. Do đó, nó có một sức hấp-dẫn mạnh-mẽ và lôi cuốn được một số đông người theo nó. Trong những xã-hội tổ-chức theo những nguyên-tắc nó nêu ra, nó đã nhào nắn được con người theo những khuôn khổ của nó.
Trong một thời-gian dài dặc, những lý-tưởng thần-quyền đã ngự-trị trên toàn-thể nhơn-loại. Mãi đến ngày nay, nó hãy còn chi-phối được một số đông người . Nhiều dân-tộc hiện còn hoàn-toàn sống theo chế-độ thần-quyền và những ý-tưởng mới rất ít ảnh-hưởng đến họ. Những giống dân tổ-chức theo chế-độ dân-chủ, và ngay đến những giống dân nằm dưới ách thống-trị của những nhà duy-vật phản-đối tôn-giáo cũng hãy chịu ảnh-hưởng của các tư-tưởng thần-quyền một cách mạnh mẽ. Thành-thật mà nói, số người hoàn-toàn thoát-ly sức chi-phối của thần-quyền trên thế-giới hết sức là ít ỏi.
Điều này không có nghĩa là những lý-thuyết dân-chủ và xã-hội  không có ảnh-hưởng nhiều đến đời sống loài người . Những lý-thuyết này đã gây những cuộc biến-động đã và đang làm thay đổi hẳn cuộc-diện hoàn-cầu. Nó đã tạo ra những con người mới, tuy còn bị ảnh-hưởng của tư-tưởng  thần- quyền, nhưng vẫn có một bản-sắc riêng, sống trong một xã-hội có đặc-tánh rõ ràng.
Những chủ-nghĩa Phát-xít và Quốc-xã chỉ thắng-thế trong một thời-hạn tương-đối ngắn ngủi, song cũng uốn nắn được một số đông người theo quan-niệm mình, và chủ-trương “tẩy não” cùng “dân-chủ-hoá” những con người phát-xít và quốc-xã, nếu có thành công, cũng cần một thời-gian khá dài.
Như thế, những nền tư-tưởng chánh-trị đã ra đời đều có chi-phối được đời sống của các dân-tộc một cách vô-cùng mạnh mẽ và đã đóng một vai tuồng quan-trọng trong lịch-sử loài người . Tuy vậy, nó hãy còn chứa rất nhiều khuyết-điểm.

Vui cười
Hai người đàn ông nói chuyện với nhau. Một người bảo:
- Này, có tiền và không có tiền đúng là khác nhau một trời một vực cậu ạ.
- Cậu nói thế là có ý gì?
- Ai có tiền thì đi xe hơi, uống bia ôm. Còn ai không tiền thì cố lắm cũng chỉ đi xe ôm và uống bia hơi thôi!

Anh chàng hà tiện vừa tặng hội từ thiện một món tiền lớn. Nhưng hôm sau, có người đến gõ cửa nhà anh ta.
- Thưa ông, rất cám ơn về tấm séc, nó sẽ giúp chúng tôi làm được rất nhiều việc thiện. Nhưng tôi phải nhắc một điều mà có lẽ ông quên. Chắc hẳn ông đãng trí vì tấm séc ấy, ông chưa ký tên…
- Ông lầm rồi, tôi không đãng trí đâu. Chẳng qua khi làm những việc hào phóng, tôi muốn thật kín đáo… Nếu ông cứ bắt phải ký, tôi buộc phải giúp đỡ hội từ thiện khác vậy.

Anh Hồ Chí Minh – Một bức thư độc đáo gởi Hồ Chí Minh thời Nam kỳ kháng chiến – Nguyễn văn Trần
Trang blog “ Một góc nhìn khác ” của ông Trương Duy Nhất có đề nghị mọi nguời nên sử dụng cụm từ “ Bác Hồ ” hay “ Cụ Hồ ” sao cho đúng cả về ngôn ngữ, truyền thống và văn hóa nhơn ngày sanh 19/5/1980. Người chủ trương Blog trả lời trưóc cho câu hỏi do chính ông đặt ra :
« Gọi “bác”, thì chữ bác ấy không được viết hoa- phải là : bác Hồ. Nhưng vậy cũng không ổn. Mình đâu bà con, họ hàng gì với ổng. Thế hệ ổng, cũng đâu phải hàng lớp cha chú mình. Ông thuộc lớp người xa hơn. Đúng, phải gọi ông, hay cụ.
Do sự nhồi nhét theo lối sùng tôn lãnh tụ, đến mức thành một nếp viết hoa và tụng xưng vô lối. Chữ “Bác” khi đã được viết hoa, tự thân nó đã không còn là đại từ nhân xưng nữa. Nó đã thành một tên riêng, danh từ riêng.
Nhưng quen rồi. Giờ cắt vứt đi chữ “Bác”, gọi mỗi “Hồ” cũng không ổn, nhiều khi thành ra… xấc xược. Vì thế, viết đúng, gọi đúng phải là: ông Bác Hồ, hoặc cụ Bác Hồ.
Đó là khi ta cố giữ chữ “Bác”. Còn không, đúng một cách giản đơn (theo giống), nên viết là ông Hồ Chí Minh, hay cụ Hồ Chí Minh.
Trương Duy Nhất ».
Ý kiến của một độc giả :
“cụ Minh”, “bác Minh” thay cho “cụ Hồ”, “bác Hồ”
Lãnh đạo Việt Nam thường gọi nhau bằng cách dùng đại từ nhân xưng “Anh” kèm tên riêng. Thí dụ: Anh Đồng, anh Duẩn, anh Chinh, anh Thọ, anh Giáp, anh Linh….
Dân chúng thì gọi các lãnh đạo bằng cách dùng đại từ nhân xưng “bác” kết hợp với tên riêng. Thi dụ: bác Duẩn, bác Thọ, bác Chinh, bác Đồng…
Vậy, chúng ta cũng nên gọi cố Chủ tịch Hồ Chí Minh tương tự. Không nên gọi là “bác Hồ” hay “cụ Hồ” nữa, mà nên gọi là “cụ Minh” hay “bác Minh”.
Như vậy mới đúng tư tưởng Hồ Chí Minh, vừa giản dị, thân mật, thuận lợi, đúng truyền thống, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
Cách gọi cũ là “cụ Hồ”, “bác Hồ”, hay “Hồ chủ tịch” là lai căng, bắt trước theo cách gọi của Tàu, không đúng với thuần phong mỹ tục Việt Nam.
Vậy, từ nay chúng ta nên gọi là “cụ Minh”, “bác Minh” thay cho cu Hồ, bác Hồ. Đây chỉ là ý kiến cá nhân tôi. Mong các bạn góp ý.
Sông Hồng ».
Hai vị Trương Duy Nhứt và Sông Hồng đã có nhận xét rất rỏ. Nay, NVT tôi xin có ý thêm. Theo văn hóa việt nam, có lẽ dựa theo truyền thuyết một cái bộc nở ra trăm con, gọi « bác » với người lớn tuổi hơn cha của mình, « chú », người kém tuổi cha, như trong quan hệ gia đình. Ở Bắc, thì anh hay chị của mẹ cũng được gọi bằng « bác ». Người tàu và tây phương không có cách xưng hô cùng « một nhà » như Việt nam ta.
Theo văn hóa ứng xử việt nam, khi gọi « bác Hồ », nếu dành cho mọi người, thì hoàn toàn không đúng bởi có những người tuổi xấp xỉ với Hồ Chí Minh và cả những người lớn tuổi hơn. Nên nhớ lúc về Hà nội năm 1945, ông mới có 55 tuổi nếu tính theo năm sanh dỏm 1980. Từ năm 1954, ông tự bốc lên  « cụ » hay « bác » với mọi người. Một thái độ thiếu khiêm tốn của một con người thật sự không có cái gì là của riêng mình có giá trị.
Vả lại, khi xưng hô « bác » – không thấy có ai gọi « chú » – thì phải « bác Nguyễn Sinh Côn » hay « bác Nguyển Tất Thành » hoặc « bác Côn » hay « bác Thành » vì cách gọi này mới có cơ sở văn hóa việt nam.
Nhưng có điều không giống ai vì xưng « bác » cũng bị độc quyền. Có những người mà cha kém tuổi hơn các ông Trường Chinh, Phạm văn Đồng, …cũng vẫn phải gọi các ông này là « chú » thay vì « bác » cho đúng phép. Ở miến Bắc, chỉ gọi « bác » sau khi Hồ Chí Minh chết đi. Thậm chí, sau 30/04/75, người trẻ miền Bắc vào Nam gọi mọi người lớn hơn cha mình bằng « chú ». Họ như không biết gọi ai là « bác » ngoài « bác Hồ » của họ.
Cả tiếng « bác » lại cũng bị ông chôm làm của riêng nữa !
Sau cùng Hồ Chí Minh là một tên hoàn toàn chánh trị nên chỉ gọi « bác Hồ, ông Hồ » hoặc «  bác, ông Hồ Chí Minh », chớ không nên « bác, ông Minh » vì « bác, ông Minh » là không đúng hắn. Mà tại sao không gọi « đồng chí, đồng chóe » vì cùng đảng vói nhau, như đối với những đảng viên khác ? Nội qui đảng có ghi ngoại lệ này không ?
Tóm lại, khi đối thoại với ông thì tùy quan hệ tuổi tác và vai vế mà xưng hô. Còn ngày nay, ông đã chết nên khi viết về ông, tưởng chỉ nên gọi « Hồ Chí Minh » là đủ và phải phép lắm rồi.
Báo chí tây phương, khi viết về Giáo hoàng Vatican, cũng viết tên. Viết hay thưa « Đức Thánh Cha » chỉ khi đối thoại với ông mà thôi.
Anh Hồ Chí Minh
Tại sao không có ai gọi «anh Hồ Chí Minh»? Thưa có. Mười Trí, tức Huỳnh văn Trí, dân Bà Quẹo, sau khi vượt ngục Côn nôn về tới đất liền, bèn cùng uống nước tiểu của nhau, thay vì trích huyết ăn thề, kết nghĩa anh em chết sống với Bảy Viễn (Lê văn Vìễn), Năm Bé và Tư Nhị. Kịp lúc phong trào Nam bộ kháng chiến nổi lên, họ cùng  tham gia kháng chiến chống Pháp ở Khu 7, lập ra Chi Đội Binh Xuyên. Năm 1949, Bảy Viễn về Sài gòn với Quốc trưởng Bảo Đại, Mười Trí ở lại với Việt Minh, được Nguyễn Bình ủy nhiệm thuyết phục Bảy Viễn đừng bỏ đi nhưng thất bại. Mười Trí, thành phần xã hội khác hơn Bảy Viễn nên dễ bị ảnh hưởng cộng sản trong lúc đó Bảy Viễn quyết liệt chống cán bộ cộng sản được Hà nội gởi vào để kìm kẹp hàng ngũ kháng chiến trong Nam phải đi theo sát đuờng lối và mục đích  cộng sản. Bảy Viễn ra lệnh cho kháng chiến quân Bình Xuyên hể biết chánh trị viên hà nội là cho đi mò tôm ngay. Tuy theo cộng sản, sau khi Bảy Viễn về thành, vì cùng anh em ăn thề với nhau, nên Mười Trí vẫn bị Nguyễn Bình nghi ngờ, đưa đi Miền Tây, hoạt động với danh xưng Sư thúc Hòa Hảo, để lôi kéo Năm Lửa (Hòa Hảo) về theo cộng sản. Trước khi đi, Mười Trí làm tiệc từ giả anh em Khu 7. Nhơn có phái đoàn Miền nam ra Bắc họp Đại Hội do Phạm Hùng hướng dẩn, Mười Trí viết thư nhờ Phạm Hùng cầm ra gởi Hồ Chí Minh để trần tình tấm lòng mình chỉ có theo chánh phủ trung ương Hà nội. Thư không niêm để phái đoàn có thể đọc.
Phạm Hùng mở thư ra đọc :
« Bức tâm thơ kính gởi anh Hồ Chí Minh.
Thằng em của anh là Mười Trí gởi thơ này chúc anh khỏe mạnh. Thằng Bảy Viễn đã đầu Tây rồi, thằng em của anh rất lấy làm buồn vì không ngăn cản được nó. Nhưng thằng em của anh hứa chắc với anh là thằng em của anh sẽ tiếp tục kháng chiến cho tới thắng lợi cuối cùng.
Dân giang hồ một khi đã theo cách mạng là nhứt định đi tới cùng, không bao giờ sanh nhị tâm.
Ký tên Huỳnh văn Trí
Trung đoàn trưởng Trung đoàn 304 » (*).
Phạm Hùng đọc qua, cảm thấy dội ngược vì chưa bao giờ có ai dám gọi Hồ Chí Minh bằng anh. Đưa cho tất cả thành viên phái đoàn lần lược đọc, ai cũng lắc đầu, im lặng. Tức ý muốn nói không nên đưa thơ cho Hồ Chí Minh.
Sau cùng, Hà Huy Giáp nhận xét nội dung thơ hoàn toàn đúng sự thật. Còn cách nói, tuy nói với « Bác », vẫn không có gì xúc phạm, thất lễ. Mười Trí kém « Bác » 13 tuổi, có gọi « Bác » bằng anh thì cũng bình thường thôi. Trái lại, lời thơ đúng là giọng dân giang hồ nam bộ, như vậy sẽ có cơ hội để « Bác » hiểu dân giang hồ nam bộ đi theo kháng chiến.
Nghe qua lý luận của Hà Huy Giáp, mọi người thấy an tâm nên đều bằng lòng nên đưa thơ của Mười Trí cho Hồ Chí Minh.
Khi gọi Hồ Chí Minh bằng anh, không biết có phải Mười Trí nghĩ Hồ Chí Minh cũng cùng gốc đi « hát » (**) như Mười Trí hay không. Bởi anh em Bình Xuyên đều gốc giang hồ, khi phong trào kháng chiến chống Tây phát động ảnh hưởng sâu xa đến lòng yêu nước ở họ, tất cả đều  từ bỏ đời sống củ, nhiệt tình tham gia kháng chiến. Trước đây giang hồ vì họ muốn sống hào hùng, ngoài vòng pháp luật.
Nên nhớ ngoài lớp trí thức tiểu tư sản ra, phần lớn những người đi theo Hồ Chí Minh làm cách mạng cộng sản đều gốc bụi đời, du thủ du thực, thất học, chẳng mấy ai ý thức được tình yêu nước, và cũng không thấy họ sẽ bị mất cái gì dưới chế độ cộng sản nên họ đi làm cộng sản chỉ để « có tất cả » nếu thành công, và không mất gì hết nếu thất bại ( Quốc tế ca).
Nhưng nếu nghĩ Hồ Chí Minh củng là dân giang hồ như Bảy Viễn thì  đó là một sự lầm lẫn rất lớn. Bởi Hồ Chí Minh không thể giang hồ vì thiếu tinh thần mã thượng của dân nam kỳ. Vã lại Hồ chí Minh là cộng sản, đệ tử chơn truyền của Staline và Mao. Staline được Lénine tuyển dụng nhờ thành tích ăn cướp ngân hàng và giết người không gớm tay. Hơn nữa Hồ Chí Minh  đi « hát » không phải trong phạm vi thôn xóm như Mười Trí, mà trên cả nước. Thành tích thổ phỉ của ông và cái đảng của ông là cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp, sau 30/04/75 trong Nam, là đổi tiền, đánh tư sản mại bản, kinh tế mới,…Ngày nay, đang đi « hát » trên ruộng đất của nhơn dân. Đảng viên lớn giàu lớn, nhỏ giàu nhỏ. Chỉ có nhơn dân lương thiện là tay trắng. Lời nói của Chu Sồi Sển, nhơn vật trong truyện « Xe lên, xe xuống » (Nguyễn Bình Phuoưng, Diển đàn Thế kỷ, Huê kỳ), nói với Tướng cộng sản hà nội Chu văn Tấn « Tụi tao vì nghèo đi làm thổ phỉ. Tụi bây cũng vì nghèo, đi làm cách mạng. Tụi mình giống nhau » rất đáng ghi nhớ để đừng mơ hồ với cộng sản.
Sau 1954, Mười Trí tập kết ra Bắc. Cũng như phần đông dân trong Nam tập kết, ông được cho đi học, cả học ở Liên xô và Đông Âu, nhưng họ đều được « hướng dẩn » theo học các ngành thiên về kỷ thuật như xây dựng, hàng hải, kế toán, …theo chế độ hữu nghị. Nên chẳng có mấy người sau 75 về Miền Nam làm cán bộ chánh trị hay an ninh.
Bảy Viễn về Sài gòn, với lực lượng võ trang Bính Xuyên, giử an ninh vùng Sài gòn Chợ lớn, đẩy lui việt cộng ra xa thành phố. Tây không giử lời hứa lập một « khu trái độn » để tiếp tục nhận thêm nhiều kháng chiến quân không theo Việt Minh cộng sản có thể yên tâm trở về mà không mang tiếng đầu Tây. Trái lại, Tây biến lực lượng bính xuyên hoàn toàn phụ thuộc họ. Và, vì sống xa hoa, chung quanh có nhiều kẻ xu nịnh, Bảy Viễn cũng bắt đầu thay đổi, để mất hẳn bản chất giang hồ lúc đầu.
Sau 1954, Bảy Viễn được Tây rước qua Tây, với cả gia đình. Ông và gia đình sống an lành ở một vùng ngoại ô phía Nam Paris, con cái học hành thành đạt. Có lẽ nhờ ông làm ăn cướp mà không thuộc thành phần đại gian đại ác.
Ghi chú :
(*) Nguyên Hùng, Bảy Viễn, Thủ lãnh Bính Xuyên, xb Văn Học, Sài gòn, 1999, trg 288-289 và Pháp Luật Tp Hồ Chí Minh, Xuân 1998.
Cũng nên để ý Nguyên Hùng là đảng viên cộng sản nên viết luôn luôn nhằm phục vụ cho tuyên truyền cộng sản và công kích những người ái quốc chống cộng sản. 
(**) Đi hát là tiếng lóng của giới giang hồ có nghĩa là đi ăn cướp.

Ngày Môi Trường Thế Giới​ 2016: Hãy Thương Môi Trường – Mai Thanh Truyết
Kể từ năm 1972, hàng năm, Chương trình Môi trường Liên hiệp quốc (UNEP) tổ chức và vinh danh Ngày Môi trường Thế giới (World Environment Day) vào ngày 5 tháng 6 nhằm mục tiêu nâng cao sự cảnh giác cho dân chúng toàn cầu về những vấn đề môi trường, cũng như kêu gọi mỗi người dân có hành động tích cực hơn trong việc bảo vệ trái đất.  Và khẩu hiệu cho Ngày Môi trường Thế giới năm 2016 là: “Tham gia cuộc đua để làm cho thế giới thành một nơi tốt đẹp hơn” (Join the race to make the world a better place). Khẩu hiệu năm nay nói lên một thông điệp rõ ràng cho thế giới về ý nghĩa của Ngày Môi trường là tất cả mọi người cần phải tham gia để biến thế giới thành một nơi cư trú tốt đẹp hơn.
Thông điệp trên nhằm mục đích kêu gọi tất cả những người quan tâm tập trung nhiều hơn về các nguy cơ mà môi trường chung phải đối mặt và động não về những hướng giải quyết các nguy cơ hiện đang diễn ra trên thế giới.
Để tiếp nối mục tiêu của năm 2015 là: nếp sống bền vững (sustainable lifestyles), năm nay, hành tinh của chúng ta đã chứa trên bảy tỷ nhân khẩu với sự phân bổ tài nguyên và điều kiện sống không đồng đều. Đo đó, với khầu hiệu Liên Hiệp Quốc là “WE ARE ONE”, mỗi chúng ta với tư cách một công dân toàn cầu cần phải cố gắng nhiều hơn để làm cho thế giới hài hòa hơn, công bằng hơn và có đời sống tốt đẹp hơn.
Đa số trong chúng ta, ít ai nghĩ đến vấn đề MÔI TRƯỜNG. Với trên 7 tỷ nhân khẩu sống trong điều kiện “chật hẹp” hơn, diện tích sống hạn chế hơn, nguồn thực phẩm vẫn còn giới hạn…nếu chúng ta tiếp tục tận dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên như hiện nay, chắc chắn các thế hệ tương lai sẽ …thiếu ăn và thiếu nơi “nghĩ chân”!
Đó là lý do sống còn, và là lý do tại sao chúng ta phải tiêu thụ nguồn thực phẩm, nguồn nguyên liệu thiên nhiên có ý thức và không phí phạm!
Đây là một tiêu đề có thể áp dụng cho mọi người để, trong một giây phút nào đó tự hỏi  bất chợt rằng chúng ta sống như thế nào và cuộc sống đó ảnh hưởng lên trái đất ra sao?
Từ đó, một chuổi câu hỏi khác hiện ra trong đầu trong mỗi chúng ta là:
Chúng ta ăn uống như thế nào?
Đi lại và mua sắm ra sao? 
Đi du lịch và du hí…bằng phương tiện gì? v.v
Từ những suy nghĩ đó, chúng ta sẽ nhận thức được là nếp sống bền vững rất cần thiết và là cốt lõi của việc bảo vệ môi trườngTheo ước tính của UNEP, vào năm 2050, nếu mức tiêu thụ và sản xuất giữ nguyên như hiện nay, và dân số toàn cầu sẽ tăng lên 9,6 tỷ, chúng ta cần phải có một diện tích tương đương với 3 lần trái đất cộng lại để đạt được lối sống như hiện nay với 7 tỷ dân hiện tại.
Vì vậy, việc giữ được nguyên trạng nếp sống như ngày hôm nay cho năm 2050 cần phải có một chiến lược thông minh để bảo vệ một tương lai lành mạnh.
Mục đích của Ngày Môi trường Thế giới là tập trung sự chú ý trên toàn thế giới vào tầm quan trọng của môi trường và khuyến khích sự quan tâm chính trị và hành động bảo vệ môi trường. 
Còn nhớ, vào năm 2013, Ngày Môi trường Thế giới nhấn mạnh việc phí phạm thực phẩm, điều nầy không những cần được góp phần vào việc cứu đói mà còn là một việc làm tiêu hao tài nguyên của trái đất nữa! Nên nhớ, thức ăn dư thừa của học sinh tiểu và trung học tại Hoa Kỳ trong buổi trưa đủ để cung cấp thực phẩm cho một số dân 30 triệu trong một năm!
Nên nhớ, trong giây phút đổ một miếng hamburger dư thừa vào thùng rác, chúng ta cần nghĩ đến tình trạng trên thế giới hiện còn trên 120 triệu con người không có gì để ăn hàng ngày. Khi chúng ta đang đánh răng mà cứ để vòi nước tiếp tục chảy, chúng ta hãy nghĩ đến trẻ em ở Phi Châu phải đi hàng bao cây số để hứng lấy một, hai lít nước dơ đọng trong lỗ chân thú để uống!


Cũng vào năm 2013, thế giới nhấn mạnh đến nhiều khía cạnh bảo vệ môi trường bằng “Giáo dục Môi trường và Nhận thức” (Environmental Education & Awareness-raising), trong đó nhấn mạnh vai trò của nhà giáo trên thế giới. Từ đó, chúng ta thấy rằng, vấn đề thực phẩm luôn luôn được nhắc nhở và được lập đi lập lại hàng năm nhằm kêu gọi mỗi công dân toàn cầu cần ý thức rõ ràng nguồn thực phẩm và nguồn nước sạch là nhu cầu cốt lõi của sự sinh tồn của nhân loại. 
Chúng ta phải làm gì cho Ngày Môi trường Thế giới?
Những việc làm nho nhỏ liệt kê dưới đây thể hiện mối quan tâm của mỗi người trong chúng ta đối với Ngày Môi trường Thế giới:
Cùng bón phân hữu cơ và nhổ cỏ dại trong sân nhà và nếu có thể trong các nơi công cộng như vườn chơi trẻ em, công viên; Ăn thực phẩm “sạch” (organic food)  được nuôi dưỡng hay trồng trọt trong vùng để tránh sự chuyên chở tạo thêm xả thải khí carbonic vào không khí; Tuyệt đối tránh xả rác bừa bãi nơi công cộng và giúp đở dọn dẹp rác rến ở các nơi nầy;
Cùng nhau tiết kiệm năng lượng bằng cách hạn chế sự phí phạm và mức tiêu thụ điện và nước trong nhà;
Về phương diện thành phố, kết nghĩa “chị em” (sister city) để cùng nhau nâng cao ý thức về “sức khỏe môi trường” (environmental health) ở những nơi khác nhau;
Tổ chức và thành lập các diễn đàn môi trường để phổ biến và cập nhựt một số thông tin mới về việc bảo vệ môi trường sống;
Hạn chế xử dụng xe và dùng xe đạp nếu có thể;
Về vấn đề phế thải, cần lưu ý đến các phế thải độc hại như bình điện, thùng sơn nhà cửa, các máy móc điện tử cũ không xài nữa, v.v…cần phải mang đến những trung tâm thu hồi có ở những thành phố lớn;
Đặc biệt, cần nên biết ủ (composting) phế thải hữu cơ như cỏ, nhánh cây, v.v…là một nguồn phân bón hữu cơ cho cây cỏ trong vườn, thay vì đem đổ trong thùng rác rồi đổ vào các bãi rác, chiếm thêm một diện tích không nhỏ của trái đất;
Và, mỗi chúng ta cố gắng làm thế nào để sống một đời sống thân thiện với môi trường.
Còn Việt Nam ứng xử như thế nào trước Ngày Môi trường Thế giới năm nay?
Việt Nam tham gia hưởng ứng Ngày Môi trường thế giới từ năm 1982. Hàng năm, Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương và các cơ quan liên quan tổ chức trọng thể ngày lễ này ở tất cả các tỉnh thành trên phạm vi cả nước và cũng chọn một địa phương làm nơi tổ chức các hoạt động quy mô cấp quốc gia hưởng ứng sự kiện này.
Chủ đề năm nay của Việt Nam  được dựa trên cuộc chiến chống buôn bán trái phép động vật hoang dã, trong đó làm hủy hoại đa dạng sinh học quý hiếm và đe dọa sự sống còn của loài vật đang có nguy cơ bị tuyệt chủng như voi, tê giác và hổ, cũng như các sinh vật khác quý hiếm khác.
Theo đánh giá của UNEP, hệ sinh thái trên trái đất đang dần tiến tới mức suy thoái hoặc bị biến đổi, nguyên nhân là do sự gia tăng dân số và phát triển kinh tế.
Ở Việt Nam và nhiều nước đang phát triển trên thế giới, việc tăng trưởng kinh tế còn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng (số lượng), chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu (phẩm chất). Sản xuất công nghiệp với công nghệ lạc hậu làm tăng mức tiêu hao nguyên liệu, năng lượng cần thiết rất lớn kéo theo tỷ suất phát thải chất ô nhiễm cao, cộng với nhu cầu phát triển cấp bách làm cho các nền kinh tế không đồng bộ, nhu cầu tiêu dùng tăng và với nhiều thói quen tiêu cực do phong tục, tập quán. Tất cả đã trở thành một trong những nguyên nhân trực tiếp hoặc gián tiếp khiến cho các nguồn tài nguyên bị khai thác và môi trường bị ô nhiễm, gây mất cân bằng sinh thái.
Thay lời kết
Trở về các khẩu hiệu và mục tiêu từ ngày thành lập Ngày Môi trường Thế giới, LHQ qua Chương trình Môi trường LHQ (UNEP) đã đưa ra một khái niệm duy nhứt là nhắm vào thế hệ tương lai. Như các chủ đề cho những năm đầu tiên là:
Phát triển nhưng không Hủy hoại” (Development without Destruction) cho năm 1978;
Năm 1979:“Chỉ có một Tương lai cho Con cháu chúng ta” (Only one Future for Our Children);
Năm 1980:”Một thách thức mới cho Thập niên mới” (A new Challenge for the New Decade);
Năm 1981:”Mạch Nước ngầm, Hóa chất độc hại trong dây chuyền Thực phẩm của con người” (Ground water, Toxic chemicals in Human Food chains).
Từ đó, chúng ta thấy rằng vấn đề môi trường chung trên thế giới là vấn đề sống còn của nhân loại, trong đó nước và thực phẩm là hai yếu tố quan trọng nhứt.
Nhìn chung, tình trạng nước và môi trường nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam không được sáng sủa. Do đó hàng năm, nhân Ngày Môi trường Thế Giới, LHQ luôn luôn cảnh giác tất cả các quốc gia nhất là những nước đang phát triển cần phải chú trọng hơn nữa việc mang lại nguồn nước sinh hoạt sạch cho người dân, cùng hệ thống vệ sinh phóng uế cũng như những phương hướng bảo vệ sức khỏe bằng cách gìn giữ vệ sinh cá nhân và ngăn ngừa ô nhiễm. 
Riêng về tình trạng thực phẩm ở Việt Nam, có thể nói, hơn bao giờ hết, nguồn thực phẩm “hoàn toàn” bị ô nhiễm vì những hóa chất kích thích tố tăng trưởng, hóa chất tăng trọng, trừ nấm mốc, hóa chất bảo quản dùng cho kỹ nghệ, hóa chất làm ngọt, “thúc” cho trái cây mau “chín”, làm thực phẩm có mùi thơm, làm cho có màu bắt mắt…Mà kết quả là, hiện nay, Việt Nam có tỷ lệ bịnh ung thư đủ loại cũng như số tử vong cao nhứt thế giới, và tình trạng nầy ngày càng tăng.
Thủ phạm không ai khác hơn là Trung Cộng với sự tiếp tay của Thái thú CS Bắc Việt, mà Chợ Kim Biên ở Chợ Lớn là một thí dụ điển hình.
Nếu không thực hiện việc thay đổi chính sách và quyết tâm bảo vệ môi trường ngay từ bây giờ, chắc chắn Việt Nam sẽ tiếp tục gặp nhiều khó khăn về nhiều mặt của chính sách phát triển quốc gia trong những ngày sắp tới.
Thế giới đã bước qua gần hai thập niên đầu của thế kỷ 21, thế mà con thuyển CS Bắc Việt vẫn còn lẽo đẽo co cụm trên những dòng sông không còn sinh khí vì đã biến thành dòng sông đen do ô nhiễm hóa chất từ các nhà máy sản xuất, cũng như não trạng sơ cứng với cơ chế chuyên chính vô sản…làm sao CS Bắc Việt có thể lái con thuyền CHẾT đó ra biển khơi được!
Vì vậy, một câu hỏi thiết yếu được đặt ra là, mỗi người trong chúng ta, trong và ngoài nước cần phải làm gì để giải quyết những vấn nạn trước mắt của tổ quốc, của dân tộc để tránh làm nô lệ cho Trung Cộng, tránh nạn bị đầu độc môi trường, biển đông, thực phẩm, để rồi từ đó, có thể sống còn và ngưỡng mặt với năm châu?
Câu hỏi nầy cần mỗi người trong chúng ta phải động não để đi tìm một tương lai cho Việt Nam.
Và tương lai cho Việt Nam, chắc chắn không nằm trong tay của Tàu cộng phong kiến, cũng không nằm trong tay của Anh Hai Tư bản Hoa Kỳ, và càng không nằm trong tay của CS Bắc Việt.
Mà tương lai cho Việt Nam chính là nằm trong tay của 92 triệu người con Việt, hay nói đúng hơn là nằm trong tay của 65% Tuổi Trẻ Việt Nam.
Đã đến giờ Tuổi Trẻ Việt Nam đứng lên đáp lời sông núi.
Mai Thanh Truyết, Hội KH&KT Việt Nam (VAST)
Ngày Môi trường Thế giới 5/6/2016

Bổ túc: Trích lời của Cố Tổng Thống Ronald Reagan:”Chính phủ chúng ta không có quyền lực gì trừ những quyền lực mà nhân dân đã giao cho họ.
Chúng ta, “những người dân” cho chính phủ biết họ nên làm gì, họ không không có quyền làm ngược lại.
Chúng ta là người lái, chính phủ là chiếc xe. Và chúng ta sẽ quyết định chiếc xe đó sẽ đi về đâu, bằng đường nào, với tốc độ bao nhiêu. Hầu hết tất cả các hiến pháp trên thế giới đều viết với khái niệm chính phủ sẽ cho nhân dân biết quyền lợi của họ là gì. Hiến pháp của chúng ta được viết với khái niệm:”Chúng ta” sẽ cho chính phủ biết quyền lợi của họ là gì. “Chúng ta, những người dân” đang tự do.


Lê Duẩn và chiến tranh Việt Nam (tt) – Trọng Đạt
Trận chiến 1975
Cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam Bắc là cuộc chiến viện trợ vũ khí đạn dược, cả hai bên đều không làm vũ khí đạn dược mà phải xin viện trợ từ nước ngoài, bên nào vũ khí, tiếp liệu mạnh thì bên đó thắng
Hiệp định Paris ký ngày 27-1-1973, Hà Nội vi phạm hiệp định sau ngày ngưng bắn, VNCH chống lại. Tháng 2-1973 đã có 175 xe vận tải, 223 xe tăng BV vào Nam qua đường mòn Hồ chí Minh, BV gia tăng xâm nhập.
Quốc Hội Dân Chủ kiên quyết chống chiến tranh VN, tháng 6-1973 họ ra luật cắt hết ngân khoản quân sự dành cho Đông Dương của Hành Pháp khiến VNCH không còn hy vọng yểm trợ của không lực Mỹ (22)
Sau đó họ cắt giảm viện trợ quân sự xương tủy VNCH mỗi năm khoảng 50%: Từ  2,1 tỷ tài khóa  1973 xuống còn một tỷ tài khóa 1974 và xuống còn 700 triệu tài khoá 1975,  (23) khiến cho VNCH suy yếu rõ rệt 35% xe tăng, 50% thiết giáp, máy bay thiếu cơ phận thay thế phải nằm ụ. Vì bị cúp nhiên liệu,  khả năng lưu động vận chuyển của quân đội không còn. Hỏa lực giảm từ 60 tới 70% , tháng 3 -1975 đạn chỉ còn đủ xử dụng trong một tháng, giữa tháng 4 chỉ còn đủ cho xài khoảng 10 ngày (24)
Trong khi đó Viện trợ quân sự của khối CS cho BV không thay đổi   (25). Giai đoạn 1969-72 Tổng số 684,666 tấn vũ khí, giai đoạn 1973-75 649,246 tấn coi như tương đương.
Theo Kissinger (Years of Renewal trang 481) CSBV đã xin được viện trợ của  Sô viết tăng gấp bội. Thàng 12/1974, một viên chức cao cấp Nga viếng Hà Nội. Tổng tham mưu trưởng Nga Viktor Kulikov tới tham dự họp chiến lược với Bộ chính trị BV. Sau đó  Sô Viết đã chở vũ khí viện trợ quân sự cho Hà Nội tăng gấp 4 lần  trong những tháng kế tiếp, Nga khuyến khích BV gây hấn.
Ngày 9-8-1974 Nixon từ chức vì vụ Watergate, Phó TT Gerald Ford lên thay, VNCH suy yếu trong khi BV chuẩn bị tổng tấn công
Ngày 12-12-1974 CSBV tấn công Phước Long tới ngày 7-1-1975 thì chiếm được thị xã, địch thăm dò Mỹ sau đó mở chiến dịch đánh chiếm Ban Mê Thuột bằng lực lượng lớn gần 3 sư đoàn, sau một tuần chiến đầu anh dũng quân trú phòng phải rút bỏ. Ngày 13- 3-1975 Ban Mê Thuột thất thủ, hôm sau ông Thiệu bay ra Cam Ranh mở phiên họp cao cấp quân sự sau dó ra lệnh triệt thoái Quân đoàn II đóng tại Pleiku bắt đầu từ 16-3-1975. Cuộc triệt thoái thảm bại ít nhất 75% lực lượng VNCH bị hủy hoại trong vòng có 10 ngày
Tại quân khu I áp lực đích rất mạnh, lực lượng BV tương đương 8 sư đoàn, hỏa lực áp đảo, ngày 20 rút bỏ Huế về Đà Nẵng , cuộc triệt thoái thê thảm hơn Quân khu II. Quân khu I thất thủ một cách dễ dàng trong khoảng 10 ngày, Đà Nẵng coi như thất thủ ngày 29-3. Cuộc lui binh thất bại hoàn toàn được coi tồi tệ hơn so với Quân đoàn II, hỗn loạn gấp bội phần, sự thiệt hại về nhân mạng cao hơn tại QK II.
Năm 1975, CSBV đốc toàn lực vào chiến trường miền nam  với 15 sư đoàn chính qui (thuộc 5 quân đoàn) và trên mười trung đoàn độc lập, toàn bộ tương đương khoảng 20 sư đoàn. Cuối tháng 3-1975 Quân Khu I và II lọt vào tay đối phương, một phần vì ông Thiệu sai lầm trong chiến thuật tái phối trí lực lượng nhưng phần lớn vì kiệt quệ tiếp liệu đạn dược. Tháng 4-1975 pháo binh hết đạn, máy bay nằm ụ gần hết vì thiếu cơ phận thay thế, thiếu săng cất cánh.  Các Quân đoàn, Sư đoàn rút dần, co cụm….    Quân đội VNCH bị mất một nửa lực lượng tính tới đầu tháng 4-1975, số phận của phần đất còn lại chỉ là thời gian. Nỗ lực cuối cùng của miền Nam đẩy lui địch tại Long Khánh hạ tuần tháng 4-1975. Mười ngày sau 30-4-1975 Sài Gòn thất thủ vì cạn kiệt tiếp liệu, đạn dược.
Trong hồi ký Tướng Văn Tiến Dũng cho biết vào cuối năm 1974, quân đội Sài Gòn suy giảm nghiêm trọng vì thiếu xăng dầu, đạn dược. ông ta nói  vào thời điểm đó, tình hình quân đội Sài Gòn còn bi đát hơn nhiều hơn mà họ không ngờ. Tướng Văn tiến Dũng khoe khoang chiến thắng trong Đại Thắng Mùa Xuân. Cuộc chiến người Việt giềt người Việt đã chẳng hay gì lắm lại là cuộc chiến ăn cướp như Bùi Tín nói. Tướng Dũng khoe đã đánh bại các Quân đoàn, sư đoàn địch…nhưng ông quên kể quân ta đã lấy được bao nhiêu xe Honda, ô tô, khuân được bao nhiêu tấn gạo, TV, tủ lạnh của địch.
Cũng trong bài của Trần Khải Thanh Thủy nói trên Tướng Giáp kể lại: gần cuối tháng 4-1975, ông đề nghị nên tôn trọng Tòa đại sứ Mỹ và các nhà ngoại giao của họ nhưng Ba Duẩn trợn mắt quát.
Không được, phải đánh chết những con chó, kể cả khi nó đã rơi xuống nước. Tất cả bọn Mỹ, dù là cán bộ ngoại giao hay Lầu Năm Góc đều là kẻ thù của nhân dân Việt Nam. Vì thế, phải chiến đấu quét sạch chúng đi, không để một tên xâm lược nào trên mảnh đất chúng ta”
Khi lệnh Ba Duẩn ban ra, người Mỹ tại Sài Gòn phải vội vã  tháo chạy  những ngày 28, 29, 30…. để lại một dấu ấn nhục nhã trong lịch sử nước Mỹ.
Võ Nguyên Giáp nói:
“Ngay sau đó ta phải trả một giá đắt cho chính sách cực đoan của mình. Hiếu thắng một giây, kiêu ngạo một giờ mà đổi bằng cái giá của 20 năm cấm vận. Cả nước vật lộn trong mưu sinh, khốn khó của thời hậu chiến”.
Thời hậu chiến
Cuộc chiến tranh giải phóng đã khiến cho người miền Nam tuyệt vọng liều chết vượt biển tìm tự do trong khi người miền Bắc thất vọng, nay họ mới thấy rõ bộ mặt ghê tởm của Đảng và Nhà nước. Trước đây người ta thường nghe tuyên truyền đồng bào Nam bộ lầm than đói khổ vì Mỹ -Ngụy bóc lột, nay trước mắt họ miền Nam quá sung túc văn minh so với cảnh cơ hàn của miền Bắc.
Hậu quả của các cuộc chiến tranh liên miên đưa tới khủng hoảng về kinh tế, đời sống. Từ 1976 tới 1986 CSVN bị cô lập, ông Trần Văn Thọ (Giáo sư Đại học Waseda, Đông Kinh) viết về tình trạng kinh tế 10 năm đầu sau chiến tranh khi Lê Duẫn nắm quyền:
+-”Mười năm sau 1975 là một trong những giai đoạn tối tăm nhất trong lịch sử Việt Nam. Chỉ nói về mặt kinh tế, là một nước nông nghiệp (năm 1980, 80% dân số sống ở nông thôn và 70% lao động là nông dân) nhưng Việt Nam thiếu ăn, nhiều người phải ăn bo bo trong thời gian dài. Lượng lương thực tính trên đầu người giảm liên tục từ năm 1976 đến 1979 sau đó tăng trở lại nhưng cho đến năm 1981 vẫn không hồi phục lại mức năm 1976. Công thương nghiệp cũng đình trệ, sản xuất đình đốn, vật dụng hằng ngày thiếu thốn, cuộc sông của người dân vô cùng khốn khổ. Ngoài những khó khăn của một đất nước sau chiến tranh và tình hình quốc tế bất lợi, nguyên nhân chính của tình trạng nói trên là do sai lầm trong chính sách, chiến lược phát triển, trong đó nổi bật nhất là sự nóng vội trong việc áp dụng mô hình xã hội chủ nghĩa trong kinh tế ở miền Nam”.
(Lê Duẩn -Wikipedia tiếng Việt)
Nguy cơ thiếu ăn kéo dài cho tới thời kỳ đổi mới cuối năm 1986 khi Lê Duẩn chết mới có biến chuyển. Tổng sản lượng trong 10 năm trước ngày đổi mới (1976-1986) chỉ tăng 35% (trung bình một năm 3,5%) trong khi dân số tăng 22%, lợi tức đầu người chỉ tăng khoảng 1%. Việt Nam trong khoảng thời gian này được xếp trong số 10 nước nghèo đói nhât thế giới.
Đỗ Mười, Phó thủ tướng Trưởng ban Cải tạo công thương nghiệp theo chỉ đạo của Lê Duẩn tiến hành đánh tư sản tại miền Nam VN đã gây ra thảm kịch. Ngày 23-3-1978 Mười cho khoảng 60 ngàn đoàn viên Thanh niên CS đi khắp nơi  đóng cửa kiểm kê các nhà tư sản rồi lấy nhà đuổi đi kinh tế mới, có tới mấy chục ngàn cơ sở thương mại bị đóng cửa trong một ngày.
Chiến dịch thất nhân tâm này khiến nhiều người phải tự tử hoặc đi vượt biên, một cuộc ăn cướp vĩ đại trắng trợn, trấn lột tài sản các thương gia để bỏ túi chia chác nhau, lấy nhà cửa phân phối cho các đảng viên từ ngoài Bắc vào. Ước lượng có hai triệu người đi vượt biên, mấy trăm nghìn người thiệt mạng ngoài biển khơi.
Sau này cùng với Duẩn, Mười bị kết án là người đã gây ra thảm kịch kinh tế miền nam sau 1975, đây là một kế hoạch ngu xuẩn khi đem một chủ nghĩa kinh tế mọi rợ, áp dụng vào xã hội tân tiến miền nam VN.
Cuộc chiến tranh giữa các chế độ Cộng Sản
Quan hệ Việt-Trung-Sô
Trước năm 1968, CSVN giữ hòa khí giữa Nga-Trung Cộng, nhưng sau từ trận Mậu Thân quan hệ hai bên bắt đầu rạn nứt, Tầu Cộng muốn CSVN đánh du kích có giới hạn trong khi Lê Duẩn muốn đánh qui mô, đốt giai đoạn để sớm chiếm miền nam. Sau Mậu Thân, BV đàm phán với Mỹ, Trung Cộng phản đối, năm 1972 Nixon sang Tầu, CSVN cho đó là phản bội (26). Từ năm 1973 Trung Cộng bề ngoài coi CSVN như bạn nhưng thâm tâm coi như thù. Năm 1975 Lê Duẩn thăm Bắc Kinh, họ muốn Duẩn liên minh với Tầu chống Nga nhưng ông ta từ chối và về nước. Bắc Kinh cho là VN vô ơn phản bội. Duẩn ngày càng thân Nga khiến Băc Kinh lo ngại CSVN mạnh ở Đông Dương. Ngày 1-11-1977 Nhân Dân nhật báo của Bắc Kinh coi Mỹ là bạn coi Nga là thù. Ngày 30-7-1977 Bắc Kinh tuyên bố ủng hộ Miên chống VN. Tháng 5-1978 họ cắt giảm viện trợ cho CSVN, tháng 6 thì cắt hết.
Ngày 3-11-1978 Hà Nội ký hiệp ước hữu nghị với Nga (Việt – Sô) trong đó có cả phòng thủ chung. Tháng 12-1978 và tháng 1-1979 Bắc Kinh cắt đường hàng không và hỏa xa với VN. Tháng 5-1979 biên giới Nga-Hoa xung đột nghiêm trọng. Nga tăng viện trợ kinh tế cho Hà Nội từ 450 triệu USD năm 1975 lên 1,1 tỷ năm 1979, viện trợ quân sự tăng  mạnh khi có chiến tranh Việt-Miên từ 125 triệu năm 1977 lên 600 triệu năm 1978, 900 triệu năm 1979.
Cuộc chiến Việt –Miên
Năm 1975 Bắc Kinh cho  Miên vay một tỷ USD không lời, tháng 2-1976 ký Hiệp ước quân sự với Miên, viện trợ một tỷ rưỡi USD cho Miên trong 3 năm 1976-1978. Tháng 1 năm 1978, Bà Đặng Dĩnh Siêu, Ủy viên Bộ Chính trị Trung Cộng sang thăm Nam Vang và xúc tiến viện trợ quân sự cho Campuchia.
Tranh chấp biên giới Việt –Miên liên tục những năm 1977, 1978, từ 4-5-1975 một toán Khmer đỏ đột kích Phú Quốc 6 ngày sau đó hành quyết hơn 500 người dân Việt tại đảo Thổ Chu. CSVN phản công tái chiếm, quan hệ Việt –Hoa xấu đi, họ tăng cường viện trợ cho Miên. Tháng 4-1977 quân chính qui Khmer đỏ tấn công tiến sâu vào 10 km lãnh thổ VN tại An Giang tàn sát thường dân. Ngày 25-9-1977, 4 sư đoàn Khmer đỏ chiếm nhiều địa điểm tại các huyện Tân Biên, Bến Cầu, Châu Thành Tây Ninh đốt gần 500 căn nhà, giết gần 800 người (27)
Ngày 20/11/1977, Lê Duẩn sang Tầu hội đàm với  Hoa Quốc Phong và bày tỏ quan điểm không tham gia vào cuộc tranh chấp Trung – Sô.  Duẩn cũng xin Bắc Kinh yêu cầu Campuchia chấp nhận một giải pháp hòa bình cho cuộc chiến tranh biên giới, nhưng phía Tầu lờ đi, Lê Duẩn ra về mà không mở tiệc đáp lễ.
Ngày 31-12-1977, sáu sư đoàn CSVN đánh sâu vào đất Miên, năm ngày sau rút về. Ngày 1-2-1978 Pol Pốt quyết định thành lập 15 sư đoàn và liên tục cho tấn công vào VN có khi vào sâu tới 20 cây số. Tháng 4-1978 hơn 3,000 người dân VN bị giết tại Ba Chúc, từ 1975-1978 Khmer đỏ tấn công biên giới và giết hại khoảng 30,000 người VN.
Ngày 13-12-1978 Pol Pot huy động 19 sư đoàn (từ 80-100 ngàn quân, một sư đoàn Khmer đỏ chỉ có 4,000 người (bằng một nửa của sư  đoàn VN) tấn công xâm lược và tàn sát thường dân, CSVN chận đứng bước tiến của địch, khoảng 38,000 quân Khmer đỏ bị giết, gần 6,000 tên bị bắt.
Phía VN huy động các  Quân đoàn 2, 3, 4  và các Quân khu 4, 5, 7, 9 tổng cộng 18 sư đoàn với xe tăng, pháo bính, không quân yểm trợ tiến vào đất Chùa tháp. Từ đầu tới cuối tháng 12 -1978 tiến vào toàn bộ lãnh thổ Campuchia, từ ngày 2-1 tới 4-1-1979 CSVN làm chủ toàn bộ vùng phía đông sông Cửu Long. Ngày 7-1-1979 quân Khmer đỏ tan rã, chính phủ Pol Pot rút khỏi Nam Vang. Ngày 7-1 CSVN chiếm phi trường Kampong Chonang bắt được hơn 20 máy bay, hàng trăm xe tăng và đạn dược dự trữ.
Ngày 8-1 Heng Samrin thành lập Hội đồng nhân dân cách mạng Campuchia, Hội đồng ký Hiệp ước với CSVN hợp thức hóa sự hiện diện của VN tại Miên. Ngày 17-1 thị xã cuối cùng của Khmer đỏ bị chiếm, cuối tháng 1-1979 kết thúc thắng lợi, cuối tháng 3-1979 CSVN chiếm được hết những tỉnh thành quan trọng của Campuchia và tiến sát biên giới Thái Lan.
Quân VN tiến quá nhanh, Khmer đỏ chỉ tan rã chưa bị tiêu diệt hẳn, họ tập trung thành những đơn vị nhỏ đánh du kích. CSVN phải chiếm đóng xứ Chùa Tháp 10 năm sau đó vì Khmer đỏ vẫn được Bắc Kinh tiếp viện vũ khí qua ngả Thái Lan, cho tới cuối năm 1989 mới hoàn toàn rút khỏi Campuchia. Phía CSVN cho biết họ thiệt hại 55,300 người tử thương, phía Khmer đỏ khoảng 100,000 người bị giết.
Trần Khải Thanh Thủy nhắc lời Võ Nguyên Giáp nói về thảm kịch Cao Miên. Ông ta khuyên Lê Duẩn không nên đưa quân sang Miên nhưng Duẩn bác bỏ, y nói đã có kế hoạch thôn tính Campuchia. Tướng Giáp nói:
Kết quả, sau hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ, dân tộc ta đã mất cả triệu người con ưu tú, nay thanh niên trai tráng, rường cột quốc gia lại bị điều động bắt lính vô tội vạ để sang chiến đấu tại chiến trường K…. . . .  lực lượng ta thương vong nhiều không kể xiết. Tôi nhớ lần tới một trạm phẫu trung đoàn. Trung bình một ngày, anh em bác sĩ ta phải cưa chân 40 chiến sĩ do bị mìn cài, mìn đặt… Trong điều kiện thuốc men thiếu thốn, thuốc giảm đau cũng như gây mê đều hạn chế, anh em kêu khóc như ri. Chỉ sau một tuần là số chân bị cưa xếp cao như núi, hơn hẳn đầu người một tầm tay với. Mùi thịt cháy, mùi máu tanh, mùi thối rữa toả ra khắp vùng, đi cách xa trạm cả 7, 8 km mà mùi hôi thối vẫn xông lên nồng nặc…”

Chiến tranh Việt-Trung
Đây chỉ là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt, bắt đầu ngày 17-2-1979 và kết thúc ngày 16-3-1979 Trung Cộng rút  sau khi đã chiếm Lạng Sơn, Lào cai, Cao Bằng.. mục đích bắt VN rút khỏi Campuchia không thành. Sau đó cuộc chiến còn tiếp diễn 10 năm, 13 năm sau bình thường hóa quan hệ. Ngày 30-7-1977 Bắc kinh tuyên bố ủng hộ Miên chống VN, Nga-Tầu căng thẳng. Vì CSVN thân Nga nên Trung Cộng lo ngại, ngày 1/11/1977, tờ Nhân dân Nhật báo, cơ quan ngôn luận của đảng cộng sản Trung Quốc, đã gọi Liên Xô là kẻ thù nguy hiểm nhất của Trung Quốc, và coi Mỹ như là một đồng minh. Ngày 3-11-1978 CSVN ký Hiệp ước hữu nghị Việt-Sô trong đó có cả phòng thủ chung.
Cuối năm 1977, các văn kiện của Quân khu Quảng Châu  nhấn mạnh tinh thần “phải chuẩn bị các mặt để đánh Việt Nam”, “Việt Nam là tay sai của Liên Xô, có tham vọng xâm lược Campuchia, Lào, chiếm Đông Nam Á…”
Cuối 1978 CSVN đánh sang Campuchia khiến Bắc Kinh có cớ đánh VN, Đặng Tiểu Bình viếng Đông Nam Á, ngày 5-11-1978 ông ta tuyên bố sẽ dậy cho VN một bài học. Tháng 1-1979 ĐTB được Thái Lan thỏa thuận cho mượn lãnh thổ để tiếp tế cho Khmer đỏ, tháng 1-1979 ĐTB sang Mỹ về tuyên bố sẽ tấn công VN.
Nhiếu nhà sử gia Tây phương cho rằng cuộc chiến này không có mục đích rõ ràng.
Lực lượng hai bên: Trung Cộng gồm 9 quân đoàn chủ lực tổng cộng 32 sư đoàn trên 300,000 người, 550 xe tăng, 480 đại bác, 1,200 súng cối, hỏa tiễn, 200 tầu chiến, 1,700 máy bay ở hậu cứ và hàng chục vạn dân công.
VN khoảng từ 60,000 tới 100,000 người, 7 sư đoàn, 15 trung đoàn độc lập cùng lực lượng biên phòng. Phần lớn các sư đoàn chính qui CSVN đang đóng ở Campuchia.
Từ tháng 10-1978 tới giữa tháng 2-1979 Trung cộng đánh thăm dò, cuối tháng 1-1979 Bắc Kinh đưa 17 SĐ (225,000 quân) tập trung gần biên giới cùng với 700 máy bay.
Thượng tướng không quân (Bắc Kinh) Lưu Á Châu nói Đặng Tiểu Bình gây chiến để xác nhận quyền lực tuyệt đối của ông ta trong đảng, sau đó trả thù cho Mỹ đã tháo chạy nhục nhã tháng 4-1975 cần rửa hận để được Mỹ viện trợ ồ ạt.  Nhờ cuộc chiến này Mỹ đã viện trợ cho Tầu về kinh tế, khoa học, quân sự, tiền vốn…
Nguyên văn
Cuộc chiến này đem lại cho Trung Quốc những gì? Đó là một lượng lớn thời gian, tiền bạc và kỹ thuật. Nhờ những yếu tố này, Trung Quốc tiếp tục đứng vững sau khi Liên Xô sụp đổ. Đây là thành công vĩ đại. Thậm chí có thể nói, bước đi đầu tiên của cải cách mở cửa Trung Quốc chính là từ cuộc chiến tranh này”
Năm giờ sáng ngày 17-2-1979, đại quân Trung Cộng 120,000 người tiến vào VN trên toàn tuyến biên giới, pháo kích xong họ cho bộ binh tiến vào, không quân và hải quân không được xử dụng.
Lúc đầu họ tiến nhanh nhưng sau giảm tốc độ, hậu cần tiếp liệu lạc hậu, dùng cả lừa ngựa thồ hàng. Hệ thống phòng thủ CSVN mạnh, Trung Cộng dùng biển lửa biển người tiến sâu vào VN 10 dặm. Sau hai ngày họ chiếm được 11 làng mạc và thị trấn, trong khi ấy Nga viện trợ cho CSBV qua cảng Hải Phòng và giúp chở quân bằng máy bay từ trong Nam ra Bắc.
Phi đoàn vận tải của Nga chở Quân đoàn 2 CSVN từ Campuchia về Lạng Sơn, tại đây quân Tầu tăng cường tập trung chuẩn bị đánh lớn. Từ 28-2 tới 2-3-1979 họ chiếm được Lào Cai, Cao Bằng và một số thị trấn, họ phá hủy các cơ sở kinh tế, vật chất, phá hủy toàn bộ các công trình xây dựng, dù là  nhà dân hay cột điện tại các thị xã, thị trấn Sapa, Đồng Đăng, Lạng Sơn…   Ngày 5-3-1979 CSVN tổng động viên toàn quốc  trong khi Bắc Kinh tuyên bố hoàn thành mục tiêu và bắt đầu rút. Ngày 6-3 Trung ương Đảng CSVN ra chỉ thị sẵn sàng chiến đấu bảo vệ tổ quốc, đập tan quân xâm lược.
Ngày 16-3-1979 quân Tầu Cộng rút hoàn toàn.
Trong một tháng Liên Sô đã giúp chở 20,000 quân CSVN từ Campuchia ra Bắc, những nước ủng hộ VN toàn là các nước CS như: Nga, Cuba, Ba Lan, Đông Đức, Tiệp Khắc…các nước Đông Nam Á và Tây phương yêu cầu VN rút khỏi Miên, Trung Cộng rút khỏi VN như: Nhật, Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật tân, Phần Lan, Đan Mạch, Anh, Ý, Na Uy….Trung Cộng cho biết CSVN tử thương 50,000 người và họ có 20,000 người thiệt mạng. Tháng 4 năm 1979, Báo Quân đội Nhân dân của Việt Nam ước lượng tổng cộng thương vong của quân Trung Quốc là 62,500 người.
Cuộc chiến gây thiệt hại trầm trọng cho kinh tế Việt Nam: các thị xã Lạng Sơn, Cao Bằng, thị trấn Cam Đường bị hủy diệt hoàn toàn:  320 xã, 735 trường học, 428 bệnh viện, bệnh xá, 41 nông trường, 38 lâm trường, 81 xí nghiệp, hầm mỏ và 80,000 héc ta  hoa màu bị tàn phá, 400,000 gia súc bị giết và bị cướp..Khoảng một nửa trong số 3.5 triệu dân bị mất nhà cửa, tài sản. Sau cuộc chiến CSVN nhường cho tầu chiến Liên Xô đóng ở cảng Cam Ranh để đổi lấy viện trợ tái thiết. Cuộc chiến ngắn này khiến Bắc Kinh tốn kém khoảng 1,3 tỷ USD ảnh hưởng  tới quá trình cải tổ kinh tế.
Cả hai phía đều nói chiến thắng, Đặng Tiểu Bình tuyên bố thắng lợi, phó Thủ tướng Trần Văn (TC) nói không chiếm Hà Nội vì cuộc chiến sẽ tốn kém. Phía CSVN cho rằng Tầu Cộng lạc hậu về vũ khí chiến thuật khiến sau đó họ phải hiện đại hóa quân đội. CSVN chê trách Nga chỉ viện trợ kinh tế, quân sự chứ không tham chiến và cho là Nga bị mất úy tín. Trung Cộng bất lực trong việc hỗ trợ Khmer đỏ.
Nhận định và kết luận
Năm 1952 Lê Duẩn  ở trong Nam ra Việt Bắc họp Trung ương và được Hồ Chí Minh giữ lại làm phụ tá đến đầu năm 1954, nhờ thân cận với Chủ tịch mà mấy năm sau Lê Duẩn được ông ta cất nhắc làm quyền Tổng bí thư đảng năm 1957 thay thế Trường Chinh từ chức năm 1956. Năm 1960  Ba Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương, nhờ Lê Đức Thọ cài đặt những nhân vật thân cận vào bộ máy của đảng mà dần dần Duẩn trở thành người có nhiều quyền lực nhất từ đầu thập niên 60. Theo các nhà nghiên cứu Tây phương Lê Duẩn từ thập niên 60 đã cô lập Võ Nguyên Giáp và ông Hồ để nắm hết quyền bính trong tay.
Trần Khải Thanh Thủy cho rằng Hồ Chí Minh đã không đề cử Võ Nguyên Giáp vì ông Tướng này quá nổi bật, nhiều uy tín sợ sau này khó bảo nên  Hồ đã cất nhắc Lê Duẩn, hy vọng con ngựa này sẽ chịu để ông cầm cương, thuần dưỡng… Không ngờ, năm 1963, chính ông lại là người bị hai học trò “xuất sắc” là Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ vô hiệu hoá.
Phía CSVN (28) cho rằng từ năm 1963 HCM bị đau ốm đã bàn giao trọng trách cho Lê Duẩn, ông Hồ thường hay sang Tầu chữa bệnh, những năm 1967, 1968, 1969 ông bị đau nặng, nhất là 1967 Hồ  ở luôn bên Tầu. Dù phía Tây phương hay bên CS nhận định thế nào nó cũng cho ta thấy Lê Duẩn là người nhiều quyền hành nhất trong đảng từ 1963.
Lê Duẩn là người khởi xướng và chỉ đạo cuộc chiến đẫm máu huynh đệ tương tàn từ đầu thập niên 60 cho tới khi chấm dứt tháng 4-1975. Lê Duẩn gây chiến tranh, tạo lên nhiều tội ác từ ngày y nắm quyền cho tới khi nhắm mắt. Năm 1956 Ba Duẩn từ trong Nam gửi ra Hà Nội bản “Đề Cương Cách Mạng Miên Nam” chủ trương tiến hành cách mạng lật đổ  chính phủ Sài Gòn thay vì sống chung hòa bình và đã được Trung ương đảng chấp thuận tiến hành hạn chế.
Những năm 1960, 1961, 1962, 1963 phần vì Duẩn chưa nắm toàn quyền và nhất là vì Nga Sô chủ trương sống chung hòa bình. Khrushchev mới đầu trợ giúp Bắc Việt nhưng khi chiến cuộc leo thang ông kêu gọi Hà Nội từ bỏ con đường xâm lược miền Nam, ông thôi giúp BV và bảo họ thương thuyết với Liên Hiệp Quốc. Năm 1964 Khrushchev bị lật đổ, Brezhnev tiếp tục giúp CSVN dấn thân vào cuộc chiến đẫm máu. Lê Duẩn đã nắm quyền lực tối cao, được Moscow, Bắc Kinh viện trợ quân sự, đã đưa đất nước vào thảm kịch khiến cả hai miền Nam Bắc tan nát vì bom đạn.
Từ 1968 Lê Duẩn khởi đầu chủ trương đánh lớn đốt giai đoạn để sớm chiếm miền nam mà Võ Nguyên Giáp không ủng hộ, ông này cho rằng chiến tranh qui ước sẽ thảm bại trước hỏa lực của đối phương. Mặc dù vẫn phải xử dụng Tướng Giáp nhưng Lê Duẩn đã cho cô lập ông ta.
Hậu quả là những trận Tổng tấn công lớn năm 1968, 1972 do Duẩn chủ trương đã làm đổ quá nhiều xương máu của người miền Bắc và tàn phá tan hoang miền Nam. Tướng Henri Navarre cựu Tư lệnh quân viễn chinh Pháp tại Đông dương, nói phía CS các nhà chính trị có biết quân sự.
“Chỉ có trong khối CS các nhà chính trị đã đọc binh thư của Clausewitz”
(29)
Nhưng trên thực tế các nhà chính trị như Hitler, Staline.. khi chỉ đạo về quân sự có nhiều sai lầm thất bại, Lê Duẩn cũng vậy, ông ta đã thảm bại suốt cuộc chiến, chỉ thắng được khi người Mỹ chán nản bỏ đi.
Lê Duẩn đã đầy đọa dân tộc Việt Nam từ đầu thập niên 60 cho tới 20 năm sau, dưới bài Nhìn lại vai trò của Lê Duẫn trên BBC tiếng Việt có hơn 10 người góp ý, đa số người miền Bắc, tôi xin đưa một số điển hình
Một Bạn đọc ở Hà Nội
“Ông Duẩn nổi lên được là do sự cất nhắc của ông Hồ Chí Minh……Sự can thiệp trực tiếp của Mỹ vào Nam Việt Nam đã làm cho luận điểm chiến tranh chính quy của ông Duẩn trở nên thắng thế so với đường lối thận trọng của ông Giáp
Tuy nhiên, nếu không có uy tín của ông Hồ đối với cả Liên Xô lẫn Trung Quốc thì ông Duẩn khó có thể duy trì sự ủng hộ của cả Liên Xô lẫn Trung Quốc.
Cuộc chiếm đóng Campuchia lâu hơn cần thiết và cuộc chiến tranh với Trung Quốc năm 1979 chứng tỏ đường lối thiếu mềm dẻo cũng như sự kiêu ngạo của ông Duẩn. Sự thất bại của công cuộc kiến thiết đất nước sau chiến tranh do áp dụng lý thuyết kinh tế kế hoạch hoá giáo điều đã làm tiêu tan uy tín của ông Duẩn tới mức khi ông chết phần lớn người dân VN đều cảm thấy thở phào nhẹ nhõm”
Speedmancrazy
 “Lê Duẩn nói gì đi nữa, ông ấy vẫn là một người có tài. Ông ấy giỏi về quân sự, chính trị, nhưng không giỏi về kinh tế… Cuối cùng, xin tôn vinh Lê Duẩn là một anh hùng của VN trong thời chiến, và cảm thông với những thất bại, sự “hết thời” của ông trong thời bình”
Ẩn danh
“Tôi là thế hệ trẻ, được sinh ra khi nước nhà đã thống nhất. Năm tôi ra đời là năm Lê Duẩn mất vì vậy tôi không chứng kiến trực tiếp mà chỉ nghe ba kể lại và qua tìm hiểu thêm.
Tôi không phủ nhận công lao cách mạng của Lê Duẩn nhưng cạnh đó tôi cũng không kề có cảm tình với ông ta. Khi ông ta lên nắm quyền Tổng bí thư thì đưa ra những chính sách làm dân hết sức khốn khổ.. tôi nghĩ là để ông nắm giữ chức Tổng bí thư là một sai lầm của Trung ương.
Trong mắt của bao thế hệ người Việt, chính Lê Duẩn là người có tội với dân tộc Việt Nam, ông ta là tác giả của bao nhiêu lỗi lầm tai hại, đưa Việt Nam theo đường lối Nga sô nhưng không có sự chọn lọc cho phù hợp với hoàn cảnh nội tại. Lê Duẩn là con người sắt đá, một khuôn mẫu của Stalin và hiếu chiến.
Chính ông ta đã đẩy Miền Nam vào cảnh khủng hoảng tồi tệ nhất từ sau năm 1975, đưa Việt Nam sa lầy ở Kampuchia sau khi đánh Khmer Đỏ và hy sinh bao nhân mạng một cách vô ích cho một quốc gia luôn chống lại Việt Nam. Khi Lê Duẩn mất đi, trong thâm tâm người Việt Nam rất hoan hỉ như vừa trút bớt một đại nạn cho dân tộc. Công trạng hay tội lỗi của ông sẽ được lịch sử phán xét, tôi chỉ mạo muội nêu lên quan điểm của riêng mình như một nạn nhân dưới thời cầm quyền của ông. Cầu mong ông được an nghỉ”.
Nguyễn Thanh, Thanh Hóa
Lê Duẫn là một tài năng lớn của đất nước
…Nhưng tôi tin có lẽ lịch sử Việt Nam đã khác, đất nước sẽ đỡ lạc hậu hơn bây giờ nếu năm mất của ông không phải là 1986 mà là 1976!
LM, TP HCM
Lâu nay người ta chỉ trích ông Lê Duẩn nhiều, đặc biệt là tính cực đoan của ông. Tuy nhiên, theo tôi ông này là nhân vật chống Trung Quốc cứng rắn nhất và hiệu quả nhất.
Phải nói rằng chế độ CS đã thành công trong việc nhồi sọ và reo rắc sự sợ hãi, 20 năm sau khi Lê Duẩn đã chết mà người dân trong nước vẫn còn sợ sệt không dám nói sự thật về con người tàn bạo, u mê cuồng tín này. Hầu hết những góp ý kể trên chỉ dám nêu sơ sơ một số khuyết điểm của Duẩn về chính sách kinh tế sau khi chiếm được Miền Nam và không có một góp ý nào dám đề cập tội ác tầy trời của y, thậm chí còn khen Duẩn là vị anh hùng có công thống nhất đất nước.
Công lao của Lê Duẩn ở chỗ nào? Có chăng là công đẩy hơn một triệu thanh niên miền Bắc vào chỗ chết, khiến cho cả nước tan hoang vì bom đạn. Công ở chỗ đầy đọa các sĩ quan, viên chức VNCH trong các trại tập trung.  Công lao ở chỗ kéo Việt Nam lạc hậu lùi lại mấy chục năm so với các nước láng giềng Đông nam Á, ở chỗ đưa đất nước vào cảnh binh đao khói lửa, núi xương sông máu liên miên suốt cuộc đời chính trị của y, vừa chống Tư bản vừa đánh Cộng Sản từ 1960 cho tới ngày y nhắm mắt.
Trong khi Duẩn đẩy hàng vạn, hàng triệu thanh niên, sinh viên học sinh vào tử địa nhưng con cái vợ hai, vợ ba của ông ta đã được sang Nga du học, sự việc cho thấy cái trò hèn hạ bẩn thỉu của đám lãnh đạo CS. Các nhà chính trị, quân sự CSVN không có được cái khí phách như các Tướng lãnh Tây phương. De Lattre, Tư lệnh Đông dương cho con trai độc nhất của ông trung úy Bernrad De Lattre ra trận và tử thương tại Ninh Bình năm 1951. Đô đốc John Sidney McCain Jr, Tư lệnh Thái Bình Dương vẫn cho con trung úy phi công John McCain ra trận và bị bắt làm tù binh tại Hà Nội năm 1967.
Nhiều người khen Lê Duẩn anh hùng, yêu nước chống Tầu nhưng tôi không nghĩ vậy, ông ta độc đoán, kiêu ngạo u mê. Ba Duẩn giống như anh đầy tớ theo hầu ông chủ này đánh lại ông chủ kia, đó là một sự lựa chọn ngu đần nhất trong lịch sử. Hàng trăm nghìn thanh niên vô tội phải hy sinh, gánh chịu sự ngu muội của một nhà chính trị gia u mê thất học. Lê Duẩn giả vờ khiêm tốn khéo lắm, cho xây lăng Hồ Chí Minh to đùng, tuyên truyền thổi phồng cha già dân tộc để nhân dân tưởng rằng Hồ là chủ chốt, Duẩn chỉ là kẻ thừa hành.
Cuộc chiến người Việt giết người Việt từ sau Hiệp định Genève như đã trình bầy là do Lê Duẫn đạo diễn và cuộc chiến tranh biên giới Việt- Miên cũng như Việt –Trung năm 1978, 1979 hoàn toàn do y gây ra. Ông ta chống Tầu theo Nga một cách mù quáng nên đã không ngần ngại đưa đất nước, dân tộc vào cảnh núi xương sông máu kéo dài một thập niên cho tới khi y nhắm mắt thì người dân mới hết khổ.
Nếu không có Cải cách ruộng đầt, Trường Chinh vẫn làm Tổng bí thư  cuộc chiến sẽ chỉ là du kích, chắc sẽ không có chiến tranh biên giới những năm 1978, 1979. Nếu họ Hồ đã cất nhắc Võ Nguyên Giáp năm 1957 thay vì đưa Lê Duẫn lên thì cuộc chiến sẽ không đẫm máu như thế, sẽ chỉ là đánh du kích như những năm 1965, 1966, 1967 dưới thời Johnson. Cũng chưa chắc đã có chiến tranh vì họ Hồ và Bộ chính trị chưa dám khiêu khích Mỹ, họ muốn xây dựng miền Bắc XHCN trước như đã nói trên.
Trần Khải Thanh Thủy có nói ông Hồ đã cất nhắc Lê Duẩn hy vọng con ngựa này sẽ chịu để ông cầm cương nhưng không ngờ năm 1963 chính ông lại bị con ngựa bất kham này hất ngã.
Hồ Chí Minh đã sai lầm trầm trọng khi cất nhắc Duẩn lên ngôi vị quyền lực cao nhất và có thể chính ông sau này cũng hối tiếc về quyết định của mình. Đó là một sự sai lầm chết người khi giao đất nước vào tay một tên hiếu chiến, gian ác coi sinh mạng nhân dân như cỏ rác. Mấy chục năm chiến tranh kéo dài từ ngày Lê Duẩn lên cầm quyền cho tới ngày y nhắm mắt, mấy chục năm trời máu chẩy thịt rơi, mấy chục năm tang thương đau khổ.
Không ai cản được y, ngay cả Võ Nguyên Giáp, Hồ Chí Minh còn bị y cô lập.
Miền Bắc cũng có nhiều người can đảm, hồi thập niên 80 ngay cả khi Lê Duẩn còn sống, trên một bức tường ở Hà Nội người ta thấy hình vẽ một ông tiên, dưới là một ông sư, và cuối cùng hình Lê Duẫn:
Tiên sư thằng Lê Duẫn
Sự phẫn nộ của cùng tột của nhân dân đã được thể hiện giản dị tới mức không thể giản dị hơn, nó đã quá đủ để nói lên tất cả.

Cước chú
(1) Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu 1955-1963, trang 228,229
(2) Nguyễn Đức Phương, Chiến Tranh VN Toàn Tập trang 20, 21
(3) Richard Nixon, No More Vietnams trang 50: trong năm 1964 chủ lực quân địch tăng từ 10,000 lên tới 30,000 người; phụ lực quân địch tăng từ 30,000 lên 80,000 người.
(4) BBC Vietnamese.com. Viện trợ quốc tế cho miền Bắc trong chiến tranh 10-5-2006. Giai đoạn 1955-60: 45 ngàn tấn viện trợ vũ khí, giai đoạn (1961-64) lên 70 ngàn tấn.
(5) Chiến tranh Việt Nam Toàn Tập trang 886
(6) No More Vietnams trang 73, 74, 75
(7) Stanley Karnow: Vietnam a History trang 390; answer.com, Domino theory
(8) Stanley Karnow. Vietnam A History trang 435
(9) Ngô Quang Trưởng, Trận Chiến Trong Mùa Lễ Phục Sinh 1972, trang 16, 17.
(10) Vietnam A History trang 440, 441
(11) In Retrospect, The Tragedy and Lessons of Vietnam (1995), trang 169
(12) Vietnam war Allied troop Level 1960-73 http://www.americanwarlibrary.com/vietnam/vwatl.htm
(13) George Donelson Moss: Vietnam, An American Ordeal trang 194, 198..   Cao Văn Viên: Những Ngày Cuối của VNCH trang 282
(14) Opposition to the US involvement in the Vietnam war, Wikipedia
(15) George Donelson Moss: Vietnam, An American Ordeal, trang 212
(16) Tổng hợp các tác giả: Chánh Đạo: Mậu Thân 68 Thắng Hay bại; Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975. Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới Texas 1991
(17) Richard Nixon:  No More Vietnams trang 91, 92, 93
(18) Richard Nixon:  No More Vietnams trang 126
(19) Phillip B. Davidson: Vietnam At War The History 1946-1975, chương 18 The Tet offensive trang 473.
(20) Nguyễn Đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 519.
(21) No more Vietnams trang 150, Chiến Tranh VN Toàn Tập trang 587
(22) Khi Quốc hội ra luật bó tay Tổng Thống Nixon như trên coi như họ đã bỏ VN rồi vì theo Nixon  ngoài viện trợ cho VNCH 2 tỷ năm 1973, Mỹ cần yểm trợ B-52 ( No More Vietnams tr 189).
Tác giả George Donelson Moss (Vietnam, An American Ordeal trang 388) nói viện trợ của Mỹ cho VNCH hằng năm phải ở mức từ 3 tỷ cho tới 3 tỷ rưỡi vì họ được huấn luyện chiến tranh kiểu Mỹ rất tốn kém, cần nhiều hỏa lực, 2 tỷ một năm sự thực không đủ
(23) Henry Kissinger, Years of Renewal trang 471; Cao Văn Viên Những Ngày Cuối VNCH trang 82, 83
(24) No More Vietnams trang 187, Cao Văn Viên NNCVNCH 91, 92 , Phillip B. Davidson Vietnam At War, The History 1946-1975 trang 748.
(25) BBC.Vietnamese.com ngày 10-5-2006: Viện trợ quốc tế cho miền Bắc trong chiến tranh
(26) Chiên Tranh biên giới Việt-Trung 1979- Wikipedia Tiếng Việt
(27) Chiến dịch phản công biên giới Tây Nam Việt Nam – Wikipedia Tiếng Việt
(28) Hồ Chí Minh, Wikipedia Tiếng Việt
(29) Agonie de l’Indochine trang 90:  “Mais il n’y a que dans le monde communiste que les chefs politiques ont lu Clausewitz”


Chứng bịnh xã hội thâm căn của Pháp – Nguyễn thị Cỏ May
Nước Pháp từ đầu tháng 3 cho tới nay (14-06-2016), nhiều nghìệp đoàn xuống đường  biểu tình và đình công liên tục, gây tổn thất xã hội, tính ra lên tới 20 triệu euros ngày, trong lúc nước Pháp sống qua ngày nhờ nợ.
Vừa thấy yên thì liền đó, nghìệp đoàn lại kêu gọi tiếp tục xuống đường nữa, chống Dự luật Lao động của bà Bộ trưởng Lao động El Khomri. Tuần này, biểu tình và đình cộng có thêm công nhơn Métro, Xe lửa,  xe đò, xe vận tải tham gia vì những nghiệp đoàn này cũng muốn đưa ra đòi hỏi cho quyền lợi của mình. Riêng Air France và KLM, phi công cũng  hưởng ứng đình công tuy quyền lợi của họ không bị ảnh hưởng. Ở đây đình công vì thấy Air France-KLM vừa có lời, mặc dầu mức lời chưa chắc đủ bù tổn thất do mấy vụ đình công phá phách trước đây gây ra.
Mỗi lần biểu tình là có đập phá, đốt xe, gây thương tích cho cả hai bên, người biểu tình và cảnh sát. Cường độ biểu tình gia tăng vì Dự luật, sau khi được chánh phủ tu chính rất nhiều, gần như thay đổi gần hết, được thông qua bằng luật 49.3 mà không đưa qua Quốc Hội biểu quyết. Một hình thức vi phạm dân chủ bằng luật của chế độ dân chủ pháp trị.
Nghiệp đoàn chống ? Chỉ đơn cử một chi tiết. Về khoảng giờ phụ trội. Theo luật củ thì giờ phụ trội sẽ được trả – theo qui định – từ 10%, 25% tới 50%. Nay, Dự luật El Khomri cho phép chủ nhơn, tùy điều kiện làm ăn của xí nghiệp, có thể thương lượng với công nhơn, thù lao giờ phụ trội có thể thấp hơn qui định theo sự thỏa thuận của hai bên nhưng không được dưới 10% bắt buộc. Nghiệp đoàn cho rằng điều này sẽ giúp chủ nhơn bốc lột sức lao động công nhơn.
Những cuộc biểu tình và đình công kéo dài tới hôm nay, đúng là phản đối Dự luật Lao động, nhưng không tránh khỏi nhằm làm ồn ào cho mọi người biết những yêu sách của họ đưa ra từ lâu mà chánh phủ không quan tâm giải quyết. Nhưng tác hại của suốt 3 tháng biểu tình và đình công lên sự sản xuất xã hội pháp là cực kỳ thảm hại. Thất nghiệp chỉ có tăng. Nghiệp đoàn tranh đấu chỉ nhằm bảo vệ việc làm cho người có việc làm chớ không nhằm giải quyết nạn thật nghiệp là ưu tiên. Vì mục đích thật là chánh trị. Nghiệp đoàn vẫn là công cụ và áp lực chánh trị đảng phái.
Nay nghiệp đoàn hỏa xa tham gia biểu tình vì muốn làm áp lực lên cuộc thương thuyết dự án tư nhơn hóa hoả xa vào năm 2026 , điều này chắc chắn miếng beefteak của họ sẽ nhỏ lại. Hiện nay, công nhơn hỏa xa vẫn hưởng luật của thời xe lửa chạy bằng than củi. Họ nghỉ hưu năm 50 tuổi. Lương hưu được tính trên căn bản của 6 tháng lương cuối. Ngoài ra, còn nhiều quyền lợi khác nữa như đi xe “chùa” cho cả gia đình, cả lúc hưu trí. Mặc dầu ngày nay, lái xe lửa bằng computer, tài xế có thể nhắm măt, nghe nhạc và ngủ trên ghế được.
Nghiệp đoàn hỏa xa đang kêu gọi sẽ đình công hằng tuần ngày thứ tư và thứ năm kể từ tuần này. Một bộ phận Hỏa xa phía Nam Paris (Sud Rail) thông báo sẽ ngưng làm việc từ tuần này cho tới 11/07.
Và họ kêu gọi công nhơn bìểu tình và đình công tránh bạo động, đập phá như trước đây nhưng biểu tình hôm 14-06-2016, số người tham dự lên tới gần cả triệu, đã đập phá nát tang khu thương mải Montparnasse (Parìs XIV/XV), cả nhà thương Nhi đồng Necker, khu République (Paris X) và các thành phố lớn như Rennes, Lyon, Toulouse, …
Trong lúc nước Pháp bị nghiệp đoàn biểu tình, đình công, làm tê liệt sản xuất xã hội, trời mưa kéo dài từ mấy tháng nay, làm ngập lụt nhiều nơi, ảnh hưởng nghiêm trọng tới đời sống dân chúng, bộ sậu chánh quyền lại quan tâm tới việc vận động bầu cử vào đầu năm tới hơn là giải quyết tình trạng xã hội hiện tại là ưu tiên. Tiếp xúc cử tri ở Bordeaux, TT. Hollande đã phải động viên một lực lượng an ninh hùng hậu bảo vệ nhưng vẫn không tránh được một sự viếng thăm dân gượng gạo.
Ông Tổng trưởng Kinh tế thì bị ăn trứng của dân chúng phản đối.
Lại thêm khủng bố hồi giáo vừa giết chết cả gia đình một sĩ quan an ninh pháp ở ngoại ô Paris. Trước những thảm cảnh dồn dặp đổ ập xuống nước Pháp từ mấy năm nay, vừa thiên tai, vừa nhơn sự, dân chúng có người nhắc tới ngày đăng quang, ngay buổi chiều, ông Tổng thống xã hội (chủ nghĩa) François Hollande, đi qua Berlin họp với bà Thủ tướng Merkel, phi cơ vừa cất cánh thì bị sét đánh phải hạ cánh khẩn cấp vì mất hết điện, đổi phi cơ khác. T.T. Hollande tới trể. Một điềm không lành cho ông Tổng thống mới đắc cử ngày nhặm chức !
Mới biết sức hấp dẩn của chiếc ghế quyền lực là khủng khiếp ! Đặc biệt đối với những người xã hội chủ nghĩa thường nhơn danh “cấp tiến “. Vì nhơn dân lao động !

Chứng bịnh thâm căn của Pháp
Nghiệp đoàn tập hợp sức mạnh công nhơn để cân bằng quyền lực chủ nhơn nhằm bảo vệ quyền lợi chánh đáng của công nhơn trong sự hài hòa với sự phát triển xí nghiệp. Nghiệp đoàn Anh, Đức, Nhựt, Mỹ, … thể hiện rất rỏ nhiệm vụ của tổ chức công nhơn. Trái lại nghiệp đoàn Pháp, riêng CGT (Confédération Générale du Travail – Tổng Liên Đoàn Lao động) ra đời từ đầu thế kỷ XX, tự khoát lên mình nhiệm vụ cách mạng. CGT trong mấy ngày qua, vận dụng mọi cách để bắt nước Pháp làm con tin. Dân chúng đều chán ngán trước những vụ biểu tình, đình công, đập phá, đốt xe cộ, …kéo dài như vô tận làm cho người ta thấy Pháp quả là một quốc gia không thể cải tổ chánh trị hay xã hội để tiến bộ. Dù Tả hay Hữu gì lên cầm quyền cũng bất lực. Nghiệp đoàn pháp là thứ “ông vua du đảng” !
Nay là lần đầu tiên, nhà báo đặt vấn đề hảy tìm cội nguồn của nghiệp đoàn pháp để hiểu tại sao nghiệp đoàn pháp luôn luôn chống chủ nhơn chết bỏ. Để biết tại sao xã hội pháp, kinh tế pháp bị khủng hoảng triền miên, tăng trưởng ở mức O từ nhiều năm nay trong lúc Pháp là một cường quốc về mặt tài nguyên và nhơn lực.
Năm 1906, tại thành phố Amiens phía Bắc nước Pháp – phía Bắc tập trung kỷ nghệ và hầm mõ – diển ra đại hội  IX của CGT. Sau 5 ngày thảo luận, Tổng Bí thư Victor Griffuelhes của CGT, đảng viên cộng sản, đã hướng dẫn hội nghị thông qua bản Hiến chương Amiens. Ngày nay, các nghiệp đoàn CGT, FỌ (Force ouvrière), CFDT và Sud đều tranh đấu theo bản Hiến chương Amiens. Đây là thánh kinh của nghiệp đơàn.
Bản văn vừa là khai sanh, vừa thể hiện rỏ CGT là một nghiệp đoàn cách mạng. Một thứ chủ thuyết nghiệp đoàn theo kiểu hoàn toàn của Pháp.
Hiến chương Amiens không thừa nhận nghiệp đoàn nào chỉ chủ trương cải thiện đời sống công nhơn, tức không theo đường lối cách mạng vô sản – bị Jules Guesde, người đem cộng sản vào xứ Pháp, công kích, và cũng không thừa nhận đảng phái chánh trị, không cho đoàn viên gia nhập.
Bản Hiến chương chứa những lời lẽ rất gay gắt. Rất cứng rắn. Theo nội dung bản văn, nghiệp đoàn là phải chuẩn bị một sự giải phóng trọn vẹn, toàn bộ xã hội. Mà giải phóng chỉ thực hiện được khi nào chiếm hữu được tư bản. Hiến chương chủ trương tổng đình công như là phương tiện hành động và nghiệp đoàn, hôm nay là lực lượng công nhơn tranh đấu, mai này, là tập thể sản xuất và phân phối, cơ sở tổ chức lại xã hội.
Theo ông Frank Georgi, (Giảng sư tại Đại học Paris I môn Lịch sử và nghiên cứu tại Trung tâm Lịch sử xã hôi thế kỷ XX), Hiến chương Amiens còn hàm chứa giấc mơ về một xã hội mà nền kinh tề phải trong tay nghiệp đoàn. Vì nghiệp đoàn là hiện thân chánh đáng và trực tiếp giai cấp thợ thuyền. Nó cao hơn sự đại diện của dân biểu quốc hội. Nó cho phép CGT xác định mình chính là một tác nhân chánh trị. Chính nghiệp đoàn mới đảm bảo thực hiện cải tổ xã hội. Và sau cùng, chính nghiệp đoàn mới dẩn tới cách mạng. Nên CGT kết hợp, ngoài các đảng phái chánh trị, tất cả công nhơn lao động ý thức tới cuộc tranh đấu nhằm xóa bỏ giai cấp công nhơn lảnh lương và cả giai cấp chủ nhơn.
Trung thành với Hiến chương, CGT lúc bấy giờ chọn đứng riêng tách bạch hẳn với hai tổ chức có sẳng ở nước láng giềng : mô hình Trade unioniste Anh và mô hình Social-démocrate Đức. Theo hai hệ thống này thì nghiệp đoàn không có thiên chức làm chánh trị, mỗi tổ chức có phạm trù giới hạn rỏ và tổ chức này tôn trọng tổ chức kia. Ở đó nghiệp đoàn và người làm chánh trị không xung đột nhau, không ngờ vực nhau như ở Pháp. Trái lại là khác.
Nghiệp đoàn Anh vì thế đã thành lập Đảng Lao động năm 1900 để có công nhơn làm đại biểu ở Quốc hội, điều này thuận tiện cho việc phổ biến tư tưởng cải cách trong nghiệp đoàn. Đảng Dân chủ Xã hội Đức họp Đại hội, thừa nhận quyền tự trị của nghiệp đoàn và dành cho nghiệp đoàn những đặc quyền về kinh tế.
CGT tự chọn vai trò cách mạng nhưng so với hai nghiệp đoàn láng giềng thì yếu hơn. CGT có 300 000 đoàn viên trong lúc đó, trước Thế chiến I, nghiệp đoàn Anh có hơn 4 triệu. Dễ hiểu vì chủ trương làm cách mạng triệt để thay vì tranh đấu cho quyền lợi công nhơn nên CGT không bắt rể sâu rộng được vào dân chúng lao động.
Cho tới ngày nay, mặc dầu mang nội dung hiếu chiến, Hiến chương Amiens vẫn là bản Thánh kinh của các nghìệp đoàn Pháp. Một bản văn mà các nghiệp đoàn đều qui chiếu trong mọi thảo luận ở Đại hội để nhắc nhở đoàn viên đừng xa rời cơ sở tư tưởng của tổ chức khi đi đến một quyết định quan trọng.
Từ sau Thế chiến, nghìệp đoàn bị nhiều phân hóa, nhiều cài tổ nhưng tất cả đều giử Hiến chương Amiens làm nền tảng (ngoại trừ CFTC – Liên Đoàn Công nhơn Công giáo).
Các nghìệp đoàn, nhứt là CGT, vẫn bám theo lý thuyết cách mạng mác-xít để cải tạo xã hội, xây dựng một xã hội “người không bốc lột người ” tuy điều này chẳng có mấy ai tin. Nhưng thực tế, họ làm cách mạng trong suốt 3 tháng qua, trên gần khắp nước Pháp, không gì khác hơn là đập phá, đốt xe, đốt cửa hàng, làm tê liệt sanh hoạt xã hội. Làm cho nước Pháp mang nợ càng thảm hại hơn.

Chuyện dài Tôm Cá và Môi trường … Việt Nam – Mai Thanh Truyết
Không có dân tộc, con người ta như những chiếc lá được bỏ vào tủ lạnh, vẫn sẽ xanh tốt, đôi khi còn lâu hơn khi liền cành, nhưng có phải là đang sống?
Tất cả chúng ta đều biết dân tộc này đang phải đối mặt với hoạ diệt vong, và con cám ơn ba mẹ, dù lo lắng khôn nguôi, vẫn cho phép con thắp nên một ngọn nến, thay vì ngồi nguyền rủa bóng đêm.
Thưa Quý Bà con,
Bắt đầu bài viết bằng tấm hình của một đồng phạm cá chết…từ ngày 6/4/2016 tại Vũng Áng cũng như trích đoạn một lá thư của một người trẻ hải ngoại gửi cho Ba Má khi về Việt Nam tiếp tay cùng tuổi trẻ quốc nội đứng lên “đáp lời sông núi”, người viết mời Bà con đọc bài “Chuyện dài …Tôm cá và Môi trường Việt Nam”.
Mới cách đây vừa hơn tháng, một thảm trạng đau lòng đã xảy ra trên biển Đông: Từ đặc khu kinh tế Formosa, hàng ngàn tấn chất độc đã tuôn ra biển Đông, làm cho hàng triệu triệu cá tôm chết trắng mặt biển, chết đầy bờ sông gần biển. Hàng trăm ngàn ngư dân đã phải bỏ nghề, vì không còn đánh bắt được tôm, cá. Họ đang đứng trước nguy cơ chết đói vì không có việc làm để sống còn. Một khi ngư dân chết đói, thì nông dân và thương gia cũng lâm cảnh nguy ngập theo vì không bán được hàng. Hơn nữa, hàng triệu người vì không biết là cá tôm đã bị nhiễm độc mà ăn vào thì sẽ bị ngộ độc, nếu không chết ngay, thì sẽ chết từ từ.
Điều đáng nói là cái gọi là Nhà Nước đã tỏ ra hoàn toàn dửng dưng trước thảm cảnh này. Nguyễn Phú Trọng, kẻ cầm quyền lớn nhất, đã đi thăm đặc khu giết người này nhưng không có một lời nói, một hành động nào để bảo vệ cho nhân dân. Có lẽ hắn chỉ tới, gập mình cúi đầu kính chào rồi cum cúp ra về. Thủ Tướng và Chủ Tịch Quốc Hội cùng phài đoàn thanh tra liên Bộ cũng mắc bệnh câm cùng một ngày.
Cách đây gần 20 năm, các nhà kinh tế và môi trường quốc tế (World Bank) chính yếu là Viện Phát Triển Quốc Tế, Đại học Harvard, Hoa Kỳ, đã lập kế hoạch và khuyến cáo Việt Nam về nước thải và chất thải như sau:
Không cho phép các công trình công nghiệp tiêu thụ nhiều nguyên liệu, tiêu thụ nhiều nước và công nghiệp gây ô nhiễm vào khu vực nội thành.
Chuyển các xí nghiệp độc hại gây ô nhiễm ra khu vực ngòai thành hoặc thay thế công nghệ mới không gây ô nhiễm môi trường.
Xây dựng quy hoạch và thực hiện việc thoát nước, xử lý nước và các chất thải cho các khu công nghiệp và đô thị, tránh tình trạng khu vực này đổ nước bẩn xuống khu vực kia hoặc không được xử lý làm ô nhiễm nguồn nước của toàn vùng”
Kể từ khi Tổng thống Bill Clinton ký bỏ lệnh cấm vận Việt Nam, và ngay sau đó Mỹ-Việt ký kết giao thương từ năm 1995 đến nay, Việt Nam không ngừng tăng trưởng lượng hàng hoá xuất cảng sang Hoa Kỳ, đặc biệt là thủy sản. Mức sản xuất tăng cả về lượng lẫn phẩm. Vào năm 2001, giao thương Việt-Mỹ đạt 1 tỷ Mỹ kim, nhưng đến năm 2012, hai bên đã đạt 26 tỷ, tạo ra thặng dư cho Việt Nam 11 tỷ, năm 2013, thặng dư Việt Nam lên đến 12,5 tỷ, và năm 2015, lên đến 16 tỷ. Điều nầy cho thấy, Việt Nam có lợi nhiều hơn trong khi giao thương với Hoa Kỳ. Việt Nam đã xuất cảng tôm cá nhiều nhứt sang Mỹ.
Tuy hai bên đã ký kết nhiều văn bản về các lề luật sản xuất, kiểm phẩm, bảo vệ môi trường trong lãnh vực nầy, nhưng Việt Nam, cho đến nay vẫn tiếp tục vi phạm về thực phẩm cùng hàng hoá và bị tịch thu hay tiêu hủy tại chỗ cũng như bị trả vể nguyên quán… làm thiệt hại không ít cho nông dân, người chăn nuôi và ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc dân cùng uy tín của Việt Nam trên thế giới.
Câu hỏi được đặt ra là, tại sao Việt Nam lại tiếp tục làm những lầm lỗi trên trong suốt một thời gian dài suốt 21 năm qua?
Ô nhiễm môi trường ở Việt Nam
Cơ quan Lương Nông quốc tế (FAO) đã từng khuyến cáo là chỉ số xử dụng thuốc bảo vệ thực vật ở Việt Nam rất cao, đạt mức trung bình cho một mùa là 5,3, trong lúc đó chỉ số trên ở Trung Cộng là 3,5, Phi luật Tân, 2,0, và Ấn Độ, 2,4. Thêm nữa, tiến sĩ Ngô Kiều Oanh, thuộc Trung tâm Khoa học Tự nhiên đã nhận định rằng so với diện tích đất nông nghiệp ở Việt Nam thì chỉ cần độ 50 ngàn tấn thuốc bảo vệ thực vật là quá dư thừa rồi. Như vậy, nông dân Việt Nam đã tiêu dùng gấp 30 lần tức 1,5 triệu tấn, lượng hóa chất nhiều hơn mức trung bình! Từ đó suy ra mức ô nhiễm hóa chất độc hại lên thực phẩm tiêu dùng ở Việt Nam là kết quả đương nhiên mà người tiêu thụ trong nước phải hứng chịu.
Ở Việt Nam, thuốc bảo vệ thực vật được xử dụng riêng rẽ hoặc dưới dạng hỗn hợp (cocktail) để tăng cường độ độc chất của thuốc trước sức đề kháng của sâu rầy.. . DDT được coi như là tác nhân chính trong nhiều hỗn hợp trên. Thí dụ: hỗn hợp DDT, Thiodan (hay Endosulfan) và Folidol (Methyl Parathion) thường hay được pha chế để trừ sâu cuốn lá và các côn trùng khác. Ngoài việc dùng hóa chất cho nông nghiệp, nông dân còn xử dụng các thuốc bảo vệ thực vật trong việc săn bắt tôm cá nữa(!)
Sau đây là danh sách một số hóa chất độc hại được áp dụng rộng rãi ở Việt Nam: DDT, Folodol, Mevinphos, Dichlovos, Carbofuran, Methamidophos, Endosulfan (hay Thiodan), Diazinon, Glycosate (hay 2,4-D), Diazonin, Chlopyrifos, Zinc Phosphide, Paraquat, Aluminum Phosphide. Và đây là những hóa chất hoàn toàn đã bị cấm sản xuất và xử dụng. Sở dĩ các hóa chất nầy hiện diện được ở Việt Nam là qua ngã đường biên giới Trung Cộng.
Do đó, nguy cơ ô nhiễm môi trường sống ờ Việt Nam cho đến ngày nay không còn là một sự kiện cần phải bàn cãi. Đây là một nguy cơ thực sự mà Việt Nam cần phải đối mặt và giải quyết tức thời. Trước việc các sản phẩm thực phẩm của Việt Nam xuất cảng ra ngoại quốc tiếp tục bị trả hàng loạt vì có dung lượng hoá chất cao hơn quy định, và sản phẩm tiêu dùng trong nội địa bị nhiễm độc thường xuyên, viễn ảnh một nền kinh tế què quặt trong tương lai chắc chắn sẽ phải xảy ra mà thôi.
Việc áp dụng hóa chất bảo vệ thực vật không đúng cách (đúng liều lượng thích hợp), không đúng đối tượng (sâu rầy …), và không đúng thời gian là ba yếu tố làm cho tình trạng môi trường Việt Nam ngày càng tệ hại thêm lên:
Phải chăng là do: 1- Người sản xuất, 2- Người trung gian, 3- Chính sách xuất cảng, 4- Hoặc do não trạng ăn xổi ở thì và cung cách làm ăn gian dối của cơ chế chuyên chính vô sản?
Về người sản xuất
Có thể nói, nông dân và người nuôi thủy sản là hai nguồn cung cấp ngoại tệ nặng nhiều nhứt cho chế độ. Nhưng thật sự họ hưởng được gì? Về lúa, họ làm ba mùa trong năm. Ngay cả những năm trúng mùa, họ cũng không có khả năng trả nợ mượn trước để mua phân bón, thuốc trừ sâu rầy… và lúa bán ra bị ép giá bởi các trung gian nằm trong nhóm lợi ích của chế độ. Ngay cả, khi thị trường thế giới tăng giá mua, gạo Việt Nam vẫn thấp so với các loại gạo tương đương ở Thái Lan hay Ấn Độ. Do đó, có thể kết luận rằng nhà nông làm ruộng cả năm … để làm giàu cho các tập đòan thuộc nhóm lợi ích.
Về thủy sản, chúng ta thường nghe nói đến tôm và các basa, nhưng thật ra Việt Nam nuôi rất nhiều loại cá khác nhau, cũng như xuất cảng sang Hoa Kỳ các loại cá biển đánh được.
Vấn đề đặt ra ở đây là tất cả mọi dịch vụ liên quan đến xuất cảng đều phải qua tay trung gian. Người nông dân hay chăn nuôi hoàn toàn tùy thuộc vào trung gian… từ giai đoạn bắt đầu nuôi tôm cá cho đến khi thực phẩm được trao vào tay trung gian. Đôi khi họ bị mua ép giá vì còn thiếu nợ ngân hàng và đã đến ngày đáo hạn kỳ phải trả. Do đó, người sản xuất không có điều kiện để tiếp cận trực tiếp với người mua (Hoa Kỳ) cho nên luôn bị thiệt thòi.
Về người trung gian
Cần phải định nghĩa người trung gian là ai?
Họ là những người đi thu mua tôm cá từ nhà xản xuất.
Họ cũng là người chủ nợ cho mướn đất, cho mượn tiền mua các cá tôm giống, mua thức ăn cho chúng.
Họ cũng là những cán bộ cs đưa ra những lề luật tự biên tự diễn để ép giá nhà chăn nuôi… như cá tôm không đủ tiêu chuẩn, không đủ kích thước, v.v… để ép giá.
Ngoài ra còn một âm mưu tệ hại nhứt là “họ không mua” khi tới mùa cần phải bán ra vì tôm cá đã lớn và cần bán, nếu không thì chi phí cho thức ăn sẽ quá cao và không còn lời khi bán ra nữa. Lúc nầy là lúc nhà sản xuất bị thiệt thòi nhứt, vì phải bán ra với bất cứ giá nào.
Vì vậy, nhà sản xuất chất phác miền Đồng bằng sông Cửu Long luôn luôn là nạn nhân của sự chèn ép và bốc lột nầy.
Về chính sách xuất cảng
Có thể nói chính sách xuất cảng của Việt Nam là một chính sách “vô chính sách”. Từ khi bắt đầu mở cửa năm 1986 cho tới nay, nhà cầm quyền cs chưa cho thấy một động não nào cho một chính sách xuất cảng có kế hoạch. Hoặc để người nông dân hay chăn nuôi tự phát huy sáng kiến. Kế hoạch luân canh hầu như không có. Họ chỉ chạy theo tình hình thị trường trước mắt. Một thí dụ điển hình là cà phê. Khi thấy giá thị trường cá phê trên thế giới tăng cao, họ lại khuyến khích người dân phá các vườn trà để trồng cà phê. Đến khi sản xuất một số lượng quá lớn, thì thị trường thế giới xuống giá vì cà phê ối đọng. Việt Nam được “vinh dự” là nước sản xuất cà phê robusta số một thế giới. Nhưng nhà sản xuất phải bị… chết lên chết xuống vì nợ chồng chất, có khi phải bán đất bán nhà thế chấp để trả nợ.
Cũng có thể đây là một chính sách “thực sự” của đảng vì làm như vậy để… lần lần chiếm tất cả đất đai của người dân, và người dân biến thành vô sản thực sự, đúng như tinh thần chuyên chính vô sản của đảng.
Để rồi… Và cho đến hiện nay, Việt Nam vẫn tiếp tục cho TC thiết lập vô số khu kinh tế, khu khai thác quặng mõ, khu sản xuất hóa chất từ Bắc chí Nam, dưới danh nghĩa như là một khu tự trị, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Nổi cộm nhứt là câu chuyện …cá chết Vũng Áng.
Thay lời kết
Cục Báo chí thuộc Bộ Thông tin &Truyền thông vừa có quyết định xử phạt 140 triệu đồng báo Nông thôn Ngày Nay về các bài viết ”Mãi mãi là người đến sau” (của nhạc sĩ Tuấn Khanh) và ”Lời than thở của các loài cá” đăng trên ấn phẩm Thế giới Tiếp Thị của báo nầy, đồng thời đòi đóng cửa vĩnh viễn ấn phẩm này. Xin trích đoạn “LỜI THAN THỞ CỦA CÁC LOÀI CÁ” như sau:”Các loại cá Thu, Ngừ, Chình, Trích, Nục, Liệt, Đối, Phèn, Chỉ Vàng… diễu hành từng đoàn, kêu la rân trời trong vô vọng. Hơn tháng trôi qua, kể từ ngày những con cá đầu tiên chết nổi lềnh bềnh trên mặt biển, lũ cá vẫn ngơ ngác chưa hiểu chuyện gì đang và sẽ xảy ra”.
Một thí dụ về ô nhiễm môi trường biển ở Hoa Kỳ được ghi nhận cho đến ngày hôm nay.
Cty Montrose Chemical Corp. có trụ sở tại Palos Verdes, CA (gần Los Angeles) là một công ty sản xuất hóa chất D.D.T., một hóa chất diệt trừ muỗi. Cty nầy đã ngưng sản xuất từ năm 1973, ngay sau khi có lệnh cấm của LHQ. Nhưng trong suốt thập niên 1960, Cty trên đạ thải hồi 1.700 tấn phế thải lỏng có chứa dư lượng của DDT vào vùng biển nơi đây. Mãi đến năm 2000, EPA Hoa Kỳ mới hoàn tất vụ phạt công ty trên lên đến 100 triệu Mỹ kim để làm sạch vùng đáy biển (sediment) bị ô nhiễm và tái tạo môi trường sống của biển. Ngày nay, trên toàn vùng bờ biển chạy từ Long Beach đến Santa Monica, chúng ta vẫn còn thấy những bảng thông báo cho biết nguồn cá nơi đây đã bị nhiễm Thủy ngân và Chì…
Hơn 50 năm qua, hiễm họa ô nhiễm ở Palos Verdes vẫn còn…Và Vũng Áng đã xả hóa chất độc hại vào bờ biển từ Hà Tĩnh (và không biết bao nhiêu địa điểm do tàu đánh cá, tàu quân sự TC đầu độc vùng biển Đông tận mãi ngoài khơi …xa đến đảo Pag-asa, đến bờ biển Palawan, Phi luật Tân, và còn đâu nữa) vào đầu tháng 4, 2016 trở đi, mà sự kiện gần đây nhứt là cá voi, và cá mập chết tấp vào bở biển Đà Nẵng ngày 16/5 vừa qua đã xác nhận sự kiện nầy. Như vậy, ảnh hưởng lên môi trường biển miền Trung (và có thể chạy dài xuống miền Nam) Việt Nam sẽ kéo dài…trong bao nhiêu năm?
Thưa Bà con,
Sự việc trên đây đã cho chúng ta thấy rõ ràng là CS Bắc Kỳ luôn tìm cách bao che cho TC trong vụ cá chết, bằng cách bóp nghẹt tiếng nói của người dân biểu lộ một cách ôn hòa việc “làm ô nhiễm môi trường biển Việt Nam” hay “đầu độc nguồn biển bằng vũ khí hóa học và sinh học”, và cũng không loại bỏ “vũ khí phóng xạ” của TC.
Phải chăng, việc làm của TC qua sự việc Vũng Áng là một việc làm có chủ đích?
Vì sao?
Vì TC cố tình phá hoại nguồn kinh tế quốc dân của Việt Nam. Đó là nghề cá.
TC cố tình làm cho ngư dân Việt Nam từ bỏ nghể cá để một mình tự tung tự tác chiếm trọn biển Đông.
Giết và triệt tiêu thị trường xuất cảng nông, thủy hải sản Việt Nam sang Hoa Kỳ và Liên hiệp Âu Châu.
Và quan trọng hơn cả, TC cố ý gây ra việc ô nhiễm môi trường biển Đông để đầu độc các thế hệ tương lai của Việt Nam vì sức khỏe và sức đề kháng dân tộc sẽ bị ảnh hưởng trong một thời gian dài hàng 100 năm do các vũ khí kể trên gây ra.
Ngay cả tại Trung Hoa, chính TC cũng không xem sinh mạng của người Tàu ra gì cả. Từ vụ sửa chứa hóa chất độc hại Melamine từ năm 2007 cho đến nay làm cho người Tàu không dám dùng sửa “ở Tàu” cho con bú(!), hầu hết các sông ngòi ở TC đã và đang biến thành…dòng sông đen vì chất thải độc hại cả lỏng và rắn của các nhà máy sản xuất hóa chất hay sản phẩm công nghiệp đều được xả thẳng vào nguồn nước.
Như vậy, chuyện làm cho dân tộc Việt Nam bị đầu độc chết dần mòn nào có nghĩa gỉ đâu?
Một chế độ chỉ biết có cung cách làm ăn gian dối, sống chết mặc ai… ngay cả đối xử với chính dân tộc mình là người Tàu và Việt Nam trong nội địa. Quả thật đây là một hành động vô lương tâm hiếm có trên hành tinh nầy và ở thời điểm tin học của thế kỷ 21.
Lịch sử nhân loại sẽ không bao giờ tha thứ những hạng người VÔ CẢM và VÔ TÂM trên.
Nhà tranh đấu Long Điền từng nói:”Trước hiện tình đất nước VN tôi không lạc quan mà cũng không bi quan. Nhưng công tâm mà xét đây là cơ hội trời cho “Ngàn Năm Một Thuở” mọi người Việt Nam không kể quốc gia hay vc, không kể bất cứ tôn giáo nào, ngành nghề nào ai cũng có chung một tiếng nói:” Bảo vệ Môi Trường Sống của chính mình và cả Dân Tộc”. Bất cứ ai hể là dân Việt thảy đều có nhận định chung: Nhà cầm quyền không biết bảo vệ Môi Trường, để cho TC hủy diệt môi trường và còn làm tay sai cho TC sát hại dân mình. Chúng nó (bọn cầm quyền độc tài, bất nhân, phản quốc) phải ra đi. Trong vòng một năm nữa nếu toàn dân Việt Nam không khai triển yếu tố Môi Trường để dẹp CS Bắc Việt thì 100 năm sau chưa có cơ hội tương tự”.
“Formosa nhận được lệnh xả thải ồ ạt với hàm lượng hoá chất độc đủ để gây cá chết. Cùng một lúc, phối hợp với Formosa, tàu đánh cá trá hình được lệnh thả hoá chất độc xuống vùng biển ngoài khơi khu vực Vũng Áng. Và những gì phải xảy ra, đã xảy ra. Ngày 05/04/2016, ngư dân Hà Tĩnh phát hiện 5 tàu đánh cá Trung Cộng thả cái gì đó xuống biển rồi bỏ đi. Từ ngày 06/04 cá bắt đầu chết nổi trên biển, sát khu vực Vũng Áng. Tới ngày 21/04/2016 thì cá đã chết trắng một dải 250 km bờ biển miền Trung, từ Hà Tĩnh tới Thừa Thiên Huế. Ngày 07/04/2016, Biên phòng Quảng Bình bắt 6 chiếc tàu cá TC đánh bắt trái phép trên vùng biển cách bờ 20 hải lý.
Trang Elitereaders tố cáo, đầu tháng 5/2016, TC cho tàu đánh cá thả hoá chất độc giết chết cá và xua đuổi ngư dân quanh vùng đảo Thị Tứ (Pag-asa) đang do Philipinnes kiểm soát. Như vậy, thủ phạm đứng phía sau vụ cá chết ở Vũng Áng và ngoài khơi vùng biển Hà Tĩnh, Quảng Bình có thể khẳng định không ai khác là TC, là Trung Nam Hải và Bộ chính trị đảng cộng sản Trung Hoa.
Ngày hôm qua cá chết trắng trên các dòng kênh Sài Gòn. Các chết từ biển miền Trung rồi đột nhiên vào sâu trong đất liền, nhanh chóng và rất mờ ám. Những tín hiệu đã cho biết bọn xâm lăng Trung Cộng đang gấp rút thực hiện một chiến lược diệt chủng tàn khốc.
Trong khi đó, cái tổ chức băng đảng cộng sản mạo danh chính phủ Việt Nam có hành động gì?
Họ không làm gì cả, không cần cảnh báo!
Họ giải thích các sự kiện nghiêm trọng thành các hiện tượng quái đản.
Họ đùa nghịch với vận mệnh đất nước Việt Nam và chuẩn bị cho nhóm đầu lĩnh nhiệm kỳ tàn phá đất nước, băng hoại tinh thần dân tộc Việt Nam vào năm năm tiếp theo. (trích trên Dân Làm Báo).
Xin mượn lời trên mạng để kết thúc Chuyện dài Tôm cá và Môi trường Việt Nam hôm nay:”Đảng CSVN đã phạm nhiều sai lầm khi ngu dốt để cho TC thuê mướn nhiều vùng lãnh thổ chiến lược với hợp đồng lâu dài để họ lập ra các”khu tự trị” đem nhân công của họ qua làm việc và sinh sống luôn trong đó, không có cơ quan nào có quyền bước vào các “khu tự trị” nầy để kiểm soát họ đang làm gì. Khu tự trị Vũng Áng là một thí dụ. Đây là “họa mất nước” đã hiện rõ mồn một.
Dân ta cần phải ý thức điều nầy.
Formosa chỉ là hiện tượng.
Không có Formosa Vũng Áng thì cũng sẽ có Formosa ở đâu đó trên đất nước Việt Nam.
Thủ phạm chính là Trung Cộng.
Và đồng thủ phạm, chính là Đảng CS Bắc Việt, vì lòng tham và sự ngu dốt, đang bán dần đất đai cho TC qua các vụ đầu tư khai thác của các công ty nước ngoài nầy. Cho nên, đồng bào cần nên nhớ, ngày nào còn Đảng CS Bắc Việt, ngày đó dân ta còn đối diện với HỌA DIỆT VONG, Việt Nam sẽ trở thành một TÂY TẠNG thứ hai ở phía Nam.
Nước DƠ phải rửa bằng MÁU.
Mai Thanh Truyết, Hội Khoa học & Kỹ thuật Việt Nam tại Hoa Kỳ
Mùa Vu Lan 2016
Ai ơi bưng bát cơm đầy… – Nguyễn Dư  (Lyon, 6/2016)
 Ông bạn mới đi chơi Việt Nam về, hớn hở khoe:
- Lần này ghé Huế, được ăn cơm vua. Vui quá! Ông ăn cơm vua chưa?
- Thuở bé, ăn đến phát ngấy rồi! Cơm vua thời đổi mới thì chưa ăn.
Ông bạn cười tôi lẩm cẩm, lẫn lộn ngày xưa với ngày nay!
Năm 1948, 49 gia đình tôi ở phố Lê Lợi (Bà Triệu bây giờ), giữa nhà thương chữa mắt (Viện Mắt) và chùa Chân Tiên. Chiều tối, trẻ con tràn ra vỉa hè vui đùa, hò hét inh ỏi. Chơi bi, đánh đáo, kéo cưa…
 Kéo cưa lừa xẻ 
 Thợ khoẻ cơm vua 
 Thợ thua cơm làng 
 Thợ nào dở dang 
 Về bú tí mẹ. 
Hầu như ngày nào lũ quỷ sứ cũng rủ nhau ăn cơm vua vỉa hè.
Bài hát ngộ nghĩnh. Cơm vua, cơm làng nấu nướng, ăn uống ra sao là chuyện của người lớn. Trẻ con không cần biết. Cứ chơi cho sướng.
Tình cờ nghe bạn hỏi mới sực tỉnh. Mới… thắc mắc. Ừ nhỉ, cơm vua, cơm làng có gì đặc biệt?
Cơm vua… 
Xưa kia, các sinh hoạt hàng ngày trong Hoàng cung, Tử cấm thành của vua chúa nước ta không được sử thần nào ghi chép. Phải nhờ… sách báo của tây ghi chép hộ một trang sử đen tối…
Đêm ngày 5 tháng 7 năm 1885 quân ta tấn công quân Pháp đóng tại đồn Mang Cá trong kinh thành Huế. Rạng sáng hôm sau quân Pháp phản công.
7 giờ, ngày 6 tháng 7 năm 1885, lá cờ trên kì đài bị bắn hạ.
Quân ta thua, bỏ chạy. Vua Hàm Nghi cùng đoàn hộ tống chạy thoát qua cửa thành hướng tây.
Pháp chiếm toàn bộ kinh thành của triều đình Huế. Lính Pháp tiến vào Hoàng cung, Tử cấm thành, vơ vét được nhiều vàng bạc và báu vật.
Phía Pháp có 2 đại uý, 3 trung uý và 15 lính bị chết, gần 50 lính bị thương. Phía Việt Nam có khoảng 15 ngàn lính tham chiến, bị chết hơn 800 người.
Kinh thành Huế và vùng phụ cận bị tàn phá nặng nề. Mười ngày sau vẫn còn mùi xác chết, mùi khói cay. Đường phố vắng bóng người. Súc vật đi hoang, bới tìm thức ăn… (1).
Tháng 9 năm 1885, tướng De Courcy “đặt” Đồng Khánh lên ngai vàng.
Từ nay, các quan lớn Pháp tự do ra vào Hoàng cung. Vua Đồng Khánh phải ra cửa đón tiếp. Tết đến (4 tháng 2 năm 1886), Đồng Khánh được tướng Prudhomme “rủ” đi dạo phố để cho dân chúng được ngắm “long nhan”, được thấy uy quyền của Pháp.
Các tổ chức và nhân sự của triều đình Việt Nam bị Pháp tuỳ ý áp đặt, thay đổi, thậm chí xoá bỏ.
Tháng 10 năm 1885, Pháp cho phép triều đình Huế được giữ lại 4000 lính và 400 nhân viên dân sự. (Trước ngày bị Pháp chiếm, trong kinh thành Huế có khoảng 3 vạn lính của triều đình).
Ngày 17 tháng 1 năm 1886, bác sĩ Hocquard nhờ tướng Prudhomme làm trung gian xin được phép vào thăm kinh thành Huế. Ngày 20, Hocquard được cha Hoàng hướng dẫn thăm Hoàng cung.
Hocquard phải thốt lên rằng bên Âu châu cũng chưa hề có vua nào có nhiều người phục dịch chuyện ăn uống như vua An Nam!
Hocquard kể rằng đội bếp của nhà vua gồm 100 người. Mỗi ngày, mỗi người được phát 30 quan tiền kẽm để đi chợ mua đồ nấu một món ăn. Người bán hàng chẳng ai niềm nở với các cậu bếp vì nhiều cậu có thói quen mua chịu rồi quỵt luôn.
Ngoài đội nấu ăn ra, còn có thêm 500 người săn thú vật, 50 người bắn chim. Vùng biển có một đội đánh cá 50 người. Vùng hải đảo có một đội bắt tổ yến 50 người. 50 người chuyên pha chế nước trà.
Tổng cộng, số người phục dịch chuyện ăn uống của nhà vua lên đến 800 người.
Gạo vua dùng phải thật trắng. Được lựa từng hạt. Hạt nào cũng phải còn nguyên vẹn, không bị sứt mẻ. Gạo được nấu bằng nồi đất, dùng một lần rồi đập bỏ.
Vua Tự Đức là người rất thận trọng nhưng nhút nhát, hay sợ sệt. Ngài không ăn những món chưa được ngự y nếm trước. Nhà vua dùng đũa tre. Mỗi bữa đều thay đũa mới. Vua không dùng đũa ngà của giới thượng lưu vì đũa ngà nặng quá. Vua chỉ uống nước đã được chưng cất cẩn thận hoặc uống một loại rượu hạt sen ướp hương liệu.
Lượng gạo vua dùng mỗi bữa được cân đúng lượng. Bữa nào vua ăn không ngon miệng thì ngài gọi ngự y vào. Ngự y pha thuốc và uống thử trước mặt vua trước khi đưa cho vua dùng (2).
Đầu tháng 5 năm 1886, Frédéric Baille cùng Khâm sứ Vial vào Hoàng cung chào mẹ vua Đồng Khánh. Chuyến thăm viếng được Baille kể lại trong sách Les Annamites (1898).
Có đoạn nói về chuyện ăn uống của nhà vua:
“Thường nhật, vua Đồng Khánh dùng (cơm) ba lần : sáu giờ sáng, mười một giờ trưa và năm giờ chiều. Mỗi bữa ăn có 50 món khác nhau, do 50 đầu bếp nấu nướng cho Hoàng cung. (Vua Khải Định chỉ dùng 35 món ăn). Mỗi người lo nấu một món riêng của mình và khi chuông đổ thì trao cho đám thị vệ đưa qua đoàn Thái giám. Các ông này chuyển đến năm cung nữ và chỉ có mấy nàng mới được hân hạnh quỳ gối hầu cơm đức vua.
(…) Gạo đức vua dùng phải thật trắng và chọn lựa từng hạt, nấu trong nồi đất, mỗi lần nấu xong thì đập bỏ. Đũa vua dùng vót bằng tre vừa mới trổ đủ lá và thay đổi hàng ngày. Loại đũa ngà không tiện dụng vì hơi nặng đối với tay nhà vua. Số lượng gạo phải được xem kỹ và nấu thật đúng, không bao giờ nhiều hay ít hơn, nếu đức vua không ăn như ngày thường, nếu ngài thấy không ngon miệng thì ngài gọi các viên ngự y đến xem mạch bốc thuốc. Ngài bắt các y sĩ uống trước mặt ngài” (3).
Tháng 1 năm 1886, Hocquard nói đội đầu bếp của vua có 100 người. Tháng 5, Baille nói có 50 người. Ai đúng ai sai ? Có thể cả hai cùng lầm vì nghe “hướng dẫn viên du lịch” người Việt giải thích.
Orband cho biết ngay sau khi chiếm được Huế, Pháp đã tổ chức lại tất cả các sinh hoạt trong kinh thành.
Tháng 10 năm 1885, đầu bếp của triều đình được chia thành đội phụng thiện (bếp của mẹ vua) 20 người, thượng thiện (bếp của vua) 40 người, thượng trà (pha chế nước trà) 20 người, từ tế ti (tổ chức cúng tế) 40 người, lý thiện (bếp của các quan) 40 người, ngư nghệ (đánh cá) 20 người. Tổng cộng 180 người (4).
Năm 1886, Hocquard và Baille vào thăm viếng Hoàng cung.
Hocquard và Baille đã được nghe hai người hướng dẫn khác nhau kể chuyện.
Người hướng dẫn Hocquard cho biết vài chi tiết về vua Tự Đức. Người hướng dẫn Baille lại gán những chi tiết này cho vua Đồng Khánh.
Những con số (đúng hay sai) được đưa ra là của thời Tự Đức (hay trước nữa?). Vì thế mà số người làm bếp của nhà vua, Hocquard chép là 100 người, Baille chép là 50 người. Thời Đồng Khánh chỉ có 40 người.
Điều gì hai người hướng dẫn kể giống nhau thì hai bài viết cũng chép giống nhau.
Văn học Việt Nam đánh giá vua Tự Đức là ông vua hay chữ, sáng tác nhiều thơ văn nhất triều Nguyễn. Thế mà nhà vua đã phải hạ bút khen:
 Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán 
 Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường 
Nhà vua ca tụng văn của Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát hay hơn văn thời Hán. Thơ của Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương hay hơn thơ thời Đường.
Thơ Đường có bài cổ phong của Lý Thân, được Tương Như dịch sang tiếng Việt (5):
 Ra công xới lúa giữa trưa, 
 ”Mồ hôi thánh thót như mưa luống cày. 
 Ai ơi bưng bát cơm đầy, 
 Dẻo thơm một hột, đắng cay muôn phần”. 
Không ngờ thơ Đường của Lý Thân đã trở thành ca dao Việt Nam. Học trò tiểu học đứa nào chả thuộc lòng câu:
 Ai ơi bưng bát cơm đầy, 
 Dẻo thơm một hột, đắng cay muôn phần. 
Vua Tự Đức ăn uống hơi khó tính. Hạt gạo phải trắng, còn nguyên vẹn. Cân đúng lượng. Nồi niêu thổi cơm chỉ dùng một lần rồi đập bỏ. Ăn uống như vậy thì chắc là không biết bài thơ, không biết câu “ca dao Việt Nam” này.
Vua Tự Đức thích “đập”. Sai người khác đập nồi. Chính tay mình thì…
 Đập cổ kính ra tìm lấy bóng 
 Xếp tàn y lại để dành hơi 
(Khóc Thị Bằng, tương truyền của vua Tự Đức)
Đọc lại mấy tài liệu mới thấy rằng cơm vua của du lịch Huế ngày nay nói cho đúng thì chỉ là cơm của các quan lớn trong triều. Ngày xưa, vua ngồi ăn một mình. Có gái hầu. Vua không ăn cùng đám đông như… tây ba-lô hay Việt kiều bây giờ. Vừa ăn vừa đùa giỡn, miệng bô bô… chống phong kiến!
Cơm làng…
Thổi cơm thi
 Ngày xưa, nhiều làng mở hội, tổ chức thi thổi cơm. Một dịp để các bà, các cô nội trợ trổ tài tại sân đình, trước mặt đông đủ hàng xóm, láng giềng.
Tất cả các thứ cần dùng như gạo, nước, củi, nồi (hay niêu), lửa, được ban tổ chức sửa soạn trước.
Một hồi trống nổi lên. Các thí sinh sẵn sàng… Dứt tiếng trống, cuộc thi bắt đầu.
Mọi người tới tấp vo gạo, nhóm bếp, thổi cơm.
Cơm chín thì bưng lên nộp ban giám khảo. Nồi cơm nào “phạm trường quy” thì bị loại ngay. Chỉ một hột sống, cháy, hay nát cũng không qua được mắt các cụ. Đàn bà con gái gì mà thổi nồi cơm cũng không nên…
Ai thổi được nồi cơm chín dẻo, thơm ngon và nhanh nhất thì thắng giải.
Cơm dự thi được làng dùng để cúng tế. Sau đó đem chia cho dân làng.
Thi thổi cơm là môt trò chơi. Dần dần thay đổi… Có nơi:
Mỗi người bắc một cái bếp, một cây tre non, và một con dao, vừa vót tre vừa thổi, lấy tre ấy mà đun bếp, hễ ai thổi chín trước thì được giải. Lại có nơi vừa ăn mía vừa thổi cơm, lấy bã mía mà đun bếp (6).
Thi thổi cơm của làng Chuông, tỉnh Hà Đông rất khó. Có hai giải.
Giải dành cho gái làng thì người dự thi phải vừa thổi cơm vừa trông một đứa bé con người khác, vừa phải giữ một con cóc thả trong một vòng tròn.
Ai thổi nồi cơm chín dẻo, dỗ cho đứa bé không khóc, giữ cho con cóc không nhảy ra ngoài vòng thì thắng giải.
Giải dành cho trai làng thì người dự thi phải bơi thuyền từ bờ đầm hay bờ ao bên này, chở các thứ cần dùng sang bờ bên kia. Bếp lửa phải đặt trên bờ, còn người thổi cơm thì ngồi dưới thuyền.
Có làng bắt người dự thi một tay xách con vịt sống, vai gánh đủ các thứ cần thiết. Nào nồi, nào bếp, gạo, nước, củi. Vừa đi vừa thổi cơm (7).
Làng Tích Sơn, tỉnh Vĩnh Yên có tục thổi cơm thi đầu năm. Nồi cơm được thổi trước tại nhà, mang ra đình dự thi.
Nồi cơm dự thi phải là nồi đất, sạch sẽ. Muốn được như vậy, người ta dùng một cái nồi đồng đun bằng bếp củi, một cái nồi đất đun bếp than. Gạo vo sẵn, để ráo nước, đổ vào nồi đất, chờ nước sôi. Đun nước sôi bằng nồi đồng, đổ vào nồi đất, ghế cho đều, rồi bắc lên bếp than vần cho đến khi cơm chín.
Nồi đun nước bằng củi bị nhọ nồi bám đen cũng không sao. Miễn là chiếc nồi đất thổi cơm, được vần trên bếp than, lúc nào cũng sạch sẽ, không có một vết khói.
Cơm dự thi được làng dùng để cúng tế. Sau đó mời các vị chức sắc, lão làng cùng ăn. Còn thừa thì chia cho dân làng (8).
Cơm làng thường là cơm trắng. Dân gian có người, có lúc phải ăn cơm đỏ, cơm độn khoai sắn. Đói, cơm gì ăn cũng thấy ngon. Trừ cơm đen của… làng bẹp hay cơm thầy, cơm cô của Vũ Trọng Phụng.
Cơm niêu… 
Đã lâu rồi, có lần được bạn bè kháo về thăm Hà Nội nhớ đi ăn cơm niêu. Ngon lắm. Tôi chỉ cười. Mấy ông khó tính thế. Được voi đòi tiên. Sống bên Pháp, ăn gạo Thái Lan, thổi bằng nồi điện Nhật, không ngon à?
Năm 1995, về làng thăm Bác Hai, tôi nói đùa:
- Cháu mời bác đi ăn cơm niêu…
- Chết thật! Bây giờ mà vẫn còn người phải ăn cơm niêu à?
Bác tôi suốt đời sống trong làng Hoàng Mai. Mãi đến năm 1954 vẫn chưa biết điện, nước máy là cái gì. Bác khổ sở với mấy cái nồi, cái niêu bằng đất. Cái nào cũng ám khói đen sì. Nhọ nồi đóng thành lớp. Lúc rửa chỉ sợ lỡ tay làm vỡ.
Ôi! cái thời Ăn xó, mó niêu đen tối. Ai cũng muốn quên.
Tôi không dám đùa dai với bác. Nói lảng sang chuyện khác.
Tôi chỉ nghĩ là cơm niêu của Bác Hai không giống cơm niêubây giờ. Nhưng cơm niêu bây giờ là cái gì thì tôi mù tịt.
Lần ghé chơi Đà Nẵng, vợ chồng tôi được bạn dẫn đi ăn. Đang ngồi chờ bỗng nghe tiếng rơi vỡ giòn tan. Tiếp theo là tiếng vỗ tay đôm đốp. Tiếng cười nói ồn ào.
Phía góc phòng đang có một đoàn quay phim.
Anh bạn cười:
- Bọn Nhật đập niêu, quay phim, quảng cáo món cơm niêu của mình. Anh chị đã thưởng thức món này chưa?
- Chưa. Chưa biết cái thú đập niêu.
Năm ngoái lên chơi Đà Lạt lại bị cái bảng hiệu Hương Trà, Cơm niêu, nồi đất, nóng hổi đập vào mắt. Cái thị xã Đức Trọng còn dáng dấp “nhà quê lên tỉnh”, nằm trên đường Đà Lạt – Sài Gòn cũng mời khách dùng cơm niêu…
Cơm niêu có vẻ ăn khách. Được đám người thích “đập phá” hưởng ứng.
Bây giờ mới biết. Suy cho cùng thì cơm niêu cũng là một loại cơm vua. Cả hai cùng dùng nồi đất. Dùng xong thì đập. Chỉ khác nhau về số lượng các món ăn.
Sách Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn có đoạn:
“Bài Tân tự của Lưu Hướng chép:
Điền Nhiên đáp Ai Công rằng:
- Ăn cơm thì không đập bát. Núp dưới bóng cây thì không bẻ cành (Thực kỳ thực bất huỷ kỳ khí. Ấm kỳ thụ giả bất chiết kỳ chi).
Đó là đường lối ăn ở trung hậu của người xưa” (9).
Vua chúa Nga có trò uống rượu đập chén. Tướng tá tây rút kiếm chém chai, tu rượu. Ta có thói ăn cháo đá bát. Nay có thêm mốt mới ăn cơm đập nồi.
Ăn cơm vua, cơm niêu kể cũng sướng. Nồi, niêu, đập quách cho khuất mắt. Khỏi phải ăn trông nồi, ngồi trông hướng. Nhưng đập mãi cũng nhàm, cũng chán…
Nước ta còn một đặc sản khác là cơm chúa. Món này chưa thấy ngành du lịch giới thiệu. Nghe đồn cơm chúa có khả năng kích thích năng khiếu… nhảy múa!
Ăn cơm chúa, múa tối ngày.
Có người lại nói:
- Ăn cơm chúa dễ bội thực. Có thể bị… động kinh!
Ghi chú :
(1)- Les Grands Dossiers de L’Illustration, Le livre de Paris, 1993, tr. 77, 78. 
 (2)- Docteur Hocquard, Une campagne au Tonkin, Arléa, 1999, tr. 605-607. 
 (3)- Tôn Thất Bình, Đời sống trong Tử Cấm Thành, Đà Nẵng, 2014, tr.16, 17. 
 (4)- R. Orband, Le Huế de 1885, in BAVH, 1-1916, tr. 82. 
 (5)- Thơ Đường, tập 1, Văn Hoá, 1987, tr. 238. 
 (6)- Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, Tổng Hợp Đồng Tháp, 1990, tr. 108. 
 (7)- Nhiều tác giả, Trò chơi dân gian Việt Nam, TP Hồ Chí Minh, 1990, tr. 60. 
 (8)- Toan Ánh, Phong lưu đồng ruộng, Xuân Thu, 1990, tr. 82. 
 (9)- Lê Quý Đôn, Vân đài loại ngữ, bản dịch của Tạ Quang Phát, tập 2, Văn Hoá Thông Tin, 1995, tr. 156.

Lịch sử không thể quên – Nguyễn thị Cỏ May
Tổng thống Obama tới viếng thăm chánh thức Việt nam, không đặt những vấn đề “dân chủ hóa chế độ “, phải tôn trọng ” nhơn quyền ” như Hà nội đã cam kết,  mà khi ra về còn để lại hai món quà quí giá, ngơài ước mơ của Hà nội. Nói món quà vì ông Obama không đói hỏi phải “có lại” ở phía Việt nam. Món thứ nhứt là tháo gở sự cấm vận bán võ khí cho Việt nam.
Dĩ nhiên, muốn có võ khí để bảo vệ đất nước, Việt nam phải mua.  Lệnh cấm vận cực kỳ quan trọng vì khi bị cấm, Việt nam có tiền cũng không mua được võ khí. Không phải chỉ không mua của Mỹ, mà các loại võ khí có liên hệ với Mỹ, cả nước sản xuất có liên hệ với Mỹ, cũng đều bị luật cấm chi phối. Hơn ai hết, Hà nội đã có kinh nghiệm về lệnh cấm vận của Mỹ rồi. Trước đây, khi khai thác dầu hỏa ở biển sâu, Liên-xô không đủ khả năng, Hà nội nghĩ có thể mua dụng cụ hay hợp tác với các nước khác ngoài Mỹ nhưng rốt cuộc, đều không thoát ra khỏi vòng cấm vận. Như mua mủi khoan Mitshubisi của Nhựt bổn cũng không được vì hảng có vốn đầu tư và kỷ thuật của Mỹ và đồng thời là đồng minh của Mỹ.
Món quà thứ nhì là giúp Việt nam xây dựng và phát triển giáo dục đào tạo nhằm đầu tư nhơn lực vào việc phát triển kinh tế xã hôi, cụ thể là thành lập Đại học chuyên nghiệp Fulbright ở Sài gòn, với kinh phí dự trù lên tới hằng trăm triệu đô-la mỹ. Món quà này, Việt nam chỉ hưởng chớ không phải mua. Có lẽ vì  vậy mà nảy sanh ra sự phản đối quyết liệt một người Mỹ được đề cử làm Chủ tịch Hội đồng Quản trị thay vì một người Vìệt nam.
Lập luận cho rằng ông Bob Kerry vốn là ” tội phạm chiến tranh”. Đứng đầu một cơ quan giáo dục phải là người trong sạch, đạo đức.
Sự phản đối không phát xuất mạnh mẻ từ phia dân chúng, càng không phải từ phía gia đình nạn nhơn ở Bến tre, mà từ đảng cộng sản, như báo chí của đảng cộng sản, của bà cựu phát ngôn Phan Thanh Thúy, bà cựu Chủ tịch nước Nguyễn thị Bình, bà cựu Đại sứ Tôn nữ thị Ninh,…Trái lại, quan điểm bênh vực, dựa theo chánh sách cũng của đảng cộng sản chủ trương “xóa bỏ hận thù, quên quá khứ để hướng về tương lai”, đồng ý sự đề cử ông Bob Kerrey lại phát xuất từ nhiều cá nhơn tư nhơn có tư cách.
Chống ông Bob Kerrey
Phát Ngôn Nhân của Bộ Ngoại Giao hà nội khẳng định Bob Kerrey đã phạm tội ác chiến tranh trong cuộc thảm sát ở Thạnh Phong, tỉnh Bến Tre. Việt Nam chưa kiện Bob Kerrey ra tòa án diệt chủng. Nhưng Việt Nam cũng chưa từng hủy các cáo buộc Bob Kerrey phạm tội ác chiến tranh. Nhà nước cộng sản ở Việt nam hài ra 5 tội của ông Bob Kerrey để bênh vực lập luận chống đối ông Kerrey được đề cử làm Chủ tịch Hội đồng Quản trị Đại học Fulbright ở Sài gòn vừa được phép thành lập.
Sau khi đã đọc một số ý kiến về việc ông Bob Kerrey làm Chủ tịch trường Đại học Fulbright, bà cựu Phó chủ tịch nước Nguyễn thị Bình chia sẻ ý kiến của một số người trong đó có ý kiến của Tôn nữ thị Ninh không ủng hộ việc bổ nhiệm ông Bob.
Theo bà, đây không phải chỉ là vấn đề ngoại giao, hay chính trị, mà chủ yếu về giáo dục văn hóa và tâm lý. Ông Bob được giao việc này là không thích hợp. Nói như vậy không phải là không đánh giá cao sự đóng góp của ông và nhiều người vào quá trình vận động và hình thành nhà trường.
Riêng bà Tôn nữ thị Ninh lớn tiếng công kích ông Bob Kerrey hung hăn hơn hết. Để yểm trợ lý do chống ông Bob Kerrey, bà Ninh khoe thành tích thời đi học ở Paris từng tưng bừng tham gia phong trào phản chiến chống «chiến tranh việt nam», thật ra chỉ chống Miền nam và Huê kỳ để yểm trợ Hà nội. Khi làm ngoại giao, bà xây dựng được mối quan hệ với thành phần phản chiến ở Mỹ và Âu châu, tức những thành phần chống lại chánh phủ của họ. Rất tiếc bà lại quên kể thêm năm 1972, bà nghỉ dạy Anh văn Trung học ở Paris
vì đã gặp được Bác sĩ Đại tá công an Nguyễn Ngọc Hà sẽ đưa bà về Sài gòn nằm vùng Ban Anh văn của trưòng Đại Học Sư Phạm. Sự chọn lựa của bà Ninh cho thấy bà quả thật là người phụ nữ thông minh vì bà thấy xa. Với cộng sản, chỉ có nghề công an mới giúp làm nên sự nghiệp lớn. Nguyễn Tấn Dũng, Trần Đại Quang,.. Xa hơn là Hồ Chí Minh cũng bắt đầu bằng nghề chỉ điểm, rồi xách động-tuyên truyền (agit-prop). Lẽ ra bà Ninh phải làm Chủ tịch Quốc Hội hay Thủ tướng. Phải chăng vì bà không hợp nhản ổng Tổng Bí thư Trọng mà đã không được « cơ cấu »?
Bà nóí bà sẳn sàng gạt quá khứ sang một bên để hướng tới tương lai, là người ủng hộ mọi chủ trương hợp tác xây dựng và phát triển quan hệ giửa hai nước Huê kỳ và Việt nam. Nhưng khi biết rằng cựu Thượng Nghị sĩ Bob Kerrey được bổ nhiệm làm Chủ tịch Đại học Fulbright, bà lại vô cùng bàng hoàng và không thể hiểu nổi. Vì, theo bà, ông Bob Kerrey là người đã trực tiếp tham gia vào cuộc thảm sát thường dân vô tội, phụ nữ, trẻ em, người già tại thôn Thạnh Phong vào tháng 2/1969. Điều này, chính ông Kerrey cũng thừa nhận. Sự việc đó là đủ để kết luận Bob Kerrey, nói theo cách nhẹ nhất, hoàn toàn không thể giữ vị trí Chủ tịch Đại học Fulbright Việt Nam. Và cũng không thể nhân danh tương lai mà bỏ qua sự thật đó. Vì, vẫn theo bà Ninh, việc ông hối hận về vai trò trong vụ thảm sát Thạnh Phong, bà nói bà không thể biết và chỉ có mình ông Kerrey biết. Không thể coi việc giữ vị trí lãnh đạo của đại học nhiều tham vọng như ĐH Fulbright là cách sửa sai cho những hành động trong quá khứ.
Bà Ninh còn hỏi ông còn chần chừ gì nữa mà không rời vị trí ngay bây giờ như ông tuyên bố “sẵn sàng”. Bà cho rằng cử chỉ đó là cử chỉ tự trọng và sẽ được người Việt Nam đánh giá cao.Và cả nhiều người Mỹ sẽ đồng tình với quyết định đó của ông.
Trả lời những người liên quan trực tiếp đến dự án công khai khẳng định rằng Bob Kerrey là người “hoàn toàn phù hợp” để giữ vị trí lãnh đạo đó, bà Ninh hỏi lẽ nào nước Mỹ không còn ai có thể vận động vốn cho trường Fulbright Việt Nam ngoài Bob Kerrey?
Ủng hộ ông Bob Kerrey
Sau những lời chống ông Bob Kerrey ở vị trí lãnh đạo Đại học Fulbright, không ít người ở Việt nam lên tiếng đả kích tác giả của những lời đó. Họ là nhà báo, nhà văn, nhà thơ, từng chiến đấu trên chiến trường, cả người trẻ, …Những người không giử vai trò cốt cán của chế độ. Họ chống không vì họ không được hưởng bổng lộc mà chống vì họ không thể chịu nổi những lập luận nặc mùi công an tư tưởng, làm nhớ lại ý hệ “ai thắng ai” của thời còn Liên-xô. Họ chống bà Tôn nữ thị Ninh mạnh hơn hết cũng vì bà này hung hăn nhứt, oang oang bằng lưởi gổ.
TỄU Blog nhắc lại một trong những câu phát biểu “nổi tiếng”của bà Tôn Nữ Thị Ninh tại buổi họp báo ở Câu lạc bộ Báo chí Quốc gia Hoa Kỳ vào tháng 10 năm 2004 khi Việt nam bị chỉ trích vi phạm thường xuyên nhân quyền, đàn áp người dân : “Trong gia đình chúng tôi có những đứa con, cháu hỗn láo, bướng bỉnh thì để chúng tôi đóng cửa lại trừng trị chúng nó, dĩ nhiên là trừng trị theo cách của chúng tôi. Các anh hàng xóm đừng có mà gõ cửa đòi xen vào chuyện riêng của gia đình chúng tôi”.
Minh Phương Nguyên bình luận “ khi bà Ninh muốn ông Bob Kerrey “không chần chừ gì nữa” rời bỏ vị trí này, phải chăng chỉ vì động cơ hoàn toàn cá nhơn thúc đẩy? Theo Minh Phương Nguyên, bà Ninh không sẵn sàng gạt quá khứ sang một bên để hướng tới tương lai cùng với nhân dân hai nước vì lợi ích chung”, như bà nói. Trái lại, rỏ ràng bà đã xách động tạo dư luận chống lại Bob Kerrey và FUV.
Cũng nên nhớ bà Ninh đã sang California để tìm sự ủng hộ, đầu tư cho trường Trí Việt của bà, và bà đã bị tẩy chay. Hơn nữa, bà Ninh không hội đủ điều kiện pháp lý vì chưa có «Văn bằng Tiến sĩ xây dựng đảng».
Ông Trân Trương đớp chác bà Ninh rất cân xứng, tuy lời lẻ có quá nặng. Như « bà Ninh là thứ ăn cháo, đá bác …. ». Ông nhắc lại khi phóng viên BBC hỏi : “Bà đã từng tham gia hoạt động đấu tranh cho dân chủ khi còn là thanh niên đi du học bên Pháp, vậy bà có biết các tổ chức thanh niên ngày nay đang hoạt động dân chủ ở Việt Nam không?” thì bà trả lời một cách khinh mạn rằng : “Tôi rất bận rộn nên ít có thời giờ quan tâm đến các việc này nên cũng không rành lắm…”.
Thật ra bà Ninh lúc còn sinh viên ở Paris chạy theo UNEF, ( Liên Đoàn Sinh viên Pháp, tổ chức khuynh tả, ngoại vi của đảng cộng sản pháp), có « bồ » người ma-rốc, cán bộ UNEF, biểu tình chống Cánh phủ Sài gòn và chống Mỹ cứu nước, chớ có tranh đấu dân chủ gì đâu. Thị Ninh làm phản chiến để chạy theo VC. Thị được Gs Trần văn Tấn đem về làm Assistante (Giảng nghiệm viên) ở Ban Anh văn Đại Học Sư phạm Sài gòn, chớ không phải Phó Ban (Không đủ bằng cấp và trình độ – chỉ có Maîtrise d’anglais, tức Tú Tài +4 – Cài « Luận án » mà Thị nói, chính là Tiểu luận – Mémoire de Maitrise ). Ngày 1/5.75, Thị Ninh mang băng đỏ, tiếp quản Đai Học Sư phạm, làm Trưởng Ban, quyết định nhơn viên ai đi, ai ở, ai làm việc gì, …vì liên tiếp mấy hôm trước 30/04, Thị chạy đi chạy về phi trường Tân Sơn Nhứt mà vẫn không leo lên được máy bay đi Mỹ trốn VC. Về nhà, Thị Ninh khóc hơn bố chết ( Kim Chi, nữ sinh viên Ban Sử Địa, láng giềng của Thị Ninh kể lại). Con người thật của Thị bắt đầu từ đây.
Tưởng cũng nên nói thêm Thị Ninh phản chiến ở Paris như vậy, mà tại sao được về Sài gòn làm việc ? Đó là khuyết điểm cơ bản của Sài gòn. Riêng Gs Trần văn Tấn « có tiếng theo VC » nhưng nhiều người bạn thân lâu năm với ông thì quả quyết ông « không phải VC ». Ông chỉ là người có họ hàng với « Bà Tư Phải » và thường thích nước chanh thêm chút đường !
Giáo sư Chu Hảo, Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Xuân Thành, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, nhà báo Nguyên Ngọc, … đều bày tỏ lập trường ủng hộ ông Bob Kerrey ở chức vụ Chủ tịch Hội đồng Quản trị Đại học Fulbright, theo chủ trương « xóa bỏ hận thù, cùng hướng về tương lai » của nhà cầm quyền ở Việt nam.
Riêng nhà báo Nguyên Ngọc không ngần ngại nói rỏ lý do ông ủng hộ ông Bob Kerrey. Ông nhận thấy ông Bob Kerrey thật lòng tự kiểm thảo, lương thiện hơn ai hết. Ông không để cho ai bào chữa cũng quyết không tự bào chữa cho mình, ông biết ông là một tội phạm không cầu mong được tha thứ, nhưng đồng thời, bằng trải nghiệm đau đớn nhất của mình, ông cũng chỉ ra mâu thuẫn chết người trong “chiến thuật của chúng tôi”, tức của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam : để tiêu diệt Việt Cộng phải đánh bật họ ra khỏi dân thường (tát nước để bắt cá). Mà điều ấy là vô phương, bởi vì, đặc biệt ở nông thôn, thời ấy, hai thực thể đó, về căn bản, là một. Không thể đánh trúng cái này mà không đánh trúng cái kia! Không thể diệt Việt Cộng mà không giết dân. Bob Kerrey là tội phạm, điều ấy ông đã đau đớn nhận, nhưng ông cũng là nạn nhân.  Nhận ra mâu thuẫn  ở chiến thuật ấy, nhưng ông không dùng nó để bào chữa cho mình. Điều đó là vĩ đại. FUV có được một người đứng đầu như vậy là tuyệt đẹp. Và lựa chọn của FUV là thật nhân văn.
Còn riêng đối với chúng tôi thì sao ? Chúng tôi, những người từng là lính Việt Cộng thời thảm khốc ấy, khi chúng tôi vẫn từng “nấp” trong nhân dân vô tội, để họ có thể cùng chết với chúng tôi? Kể cả, ngày ấy, như chính tôi từng được trải nghiệm, có bao bà mẹ, và cả các em bé nữa, sẵn sàng chết để che chở chúng tôi? …
Những người cộng sản, đặc biệt là Thị Ninh, lên án ông Kerrey lại chưa từng chiến đấu trên chiến trường. Họ đặt vấn đề không thể quên lịch sử nhưng họ ngụy tạo lịch sử, có khi xóa lịch sử cho phù hợp xu thế đồng chí. Còn lịch sử tội ác của họ có nên quên không ?
Nay, sau hơn sáu mươi năm, họ có một lời « nói phải » với hơn nửa triệu nạn nhơn cải cách ruộng đất do họ vâng lời Trung cộng tiến hành trên đất nước của họ chưa ? Rồi cũng theo Trung cộng, họ tiếp tục gây tội ác Nhân văn Giai phẩm, cải tạo Công Thương nghiệp, đánh Tư sản mại bản, Kinh tế mới, Học tập cải tạo, …Và với những phụ nữ, trẻ con đã chết để che chở họ, ngày nay, nắm trọn chánh quyền, họ có một lần nhớ tới không ? Đó là những tội ác chống nhơn loại. Bởi họ không giết người trong lúc đang giao chiến hay hành quân. Họ vẫn chưa từng nhìn nhận, trái lại, còn triển lảm thành tích giết người này. Cả những dụng cụ như cái búa với lời ghi chú « đã đập được bao nhiêu cái đầu » của những người không theo cộng sản.
Chúng ta đừng bao giờ quên …bởi vì « đó là cộng sản ! ».
Hồ chí Minh đã viết (báo Thanh Niên Quảng Châu, 20-12-1926) « Cái danh từ Tổ quốc là do các chánh trị gia đặt ra để đè đấu nhơn dân, để buộc những người vô sản phải cầm vũ khí bảo vệ tài sản của địa chủ và quyền lợi của của giai cấp tư sản. Thực ra, chẳng có Tổ quốc, cũng chẳng có bìên giới ».
Trong gần đây, để bày tỏ lập trường cộng sản kiên cường, Gs Ts, Hiệu trưởng Đại học Quốc Gia Hà nội, Vũ Minh Giang, tuyên bố « Đào mồ, cuốc mả tổ tiên của tôi thì được. Chớ đập bỏ tượng Lenin là vô văn hóa ».

Niềm đau Madrid, nỗi nhớ Sài Gòn – Trần Trung Đạo
Chuyến viếng thăm Việt Nam của TT Barack Obama có lẽ là chuyến viếng thăm của một nguyên thủ quốc gia để lại nhiều cảm xúc trong lòng người Việt Nam nhất, không phải chỉ thiện cảm, xúc động, hân hoan, niềm nở khi ông đặt chân xuống Sài Gòn nhưng cũng để lại ít nhiều cay đắng, ngậm ngùi, trống vắng khi cánh cửa của Air Force One từ từ khép lại.
Là một con người nặng tình cảm, TT Barack Obama hẳn đã đọc được những khao khát tự do dân chủ của người dân Việt Nam, nhất là tại Sài Gòn, qua cách chào đón họ đã dành cho ông. Và là một con người nặng tình cảm, ông đã để những cảm xúc riêng tư qua cách nói, cách cười, cách choàng vai tự nhiên, thân tình, đằm thắm lấn át vai trò một nguyên thủ quốc gia trong nhiều nơi ông đã ghé thăm. Đừng quên, Barack Obama từng là một điều hợp viên cộng đồng với nhiều sắc dân ở Chicago lo việc dạy kèm, thuê nhà cho người nghèo nên việc ông hòa hợp dễ dàng vào giới bình dân không có gì lạ.
Nhưng dù gì đi nữa, cuối cùng, quyền lợi và chính sách lâu dài của nước Mỹ vẫn trên hết.
Lịch sử để lại vô số bài học.
Madrid  tháng 8, 1944
Ngày 25 tháng Tám, 1944 Paris chính thức được giải phóng. Tư lịnh Đức Tướng Dietrich von Choltitz, người từ chối lệnh của Hitler chiến đấu tới cùng cho đến khi Paris chỉ còn là đống gạch vụn,  đầu hàng tại khách sạn Meurice. Trong lúc các lực lượng đồng minh tiến về phía Bắc để tấn công sang lãnh thổ Đức, một bộ phận tiếp tục giải phóng các tỉnh miền Nam nước Pháp.
Ảnh hưởng từ các cuộc nổi dậy của nhân dân Pháp tại những nơi quân đội đồng minh sắp đến vang dội sang tận Tây Ban Nha lúc đó đang chịu đựng dưới sự cai trị độc tài hà khắc của tướng Francisco Franco.
Francisco Franco (1892-1975) thiết lập chế độ độc tài toàn trị Phát Xít tại Tây Ban Nha khi phe quân phiệt của ông ta dưới danh nghĩa Bảo Hoàng với sự giúp đỡ của Hitler và Mussolini thắng Nội chiến Tây Ban Nha. Dưới chế độ hà khắc của Franco, khoảng từ 200,000 đến 400,000 người bị giết và vô số người bị đày ải trong 190 trại tập trung trên khắp Tây Ban Nha.
Mặc dù tuyên bố “trung lập” trong Thế chiến Thứ Hai,  Franco cho phép hải quân Đức và Ý cập các cảng Tây Ban Nha và tình báo của phe Trục được quyền hoạt động trên đất Tây Ban Nha. Ngoài ra, Franco còn chấp thuận cho Sư Đoàn Xanh (Blue Division) tình nguyện chiến đấu bên cạnh quân đội Hitler tại các mặt trận Volkhov và Leningrad.
Với hai lý do, một chế độ Franco độc tài Phát Xít chà đạp lên các quyền tự do của con người và đồng minh của Hitler trong Thế chiến Thứ Hai, không ít người dân Tây Ban Nha tin rằng sau khi giải phóng nước Pháp, quân đội của Mỹ, nước dân chủ hàng đầu thế giới, sẽ có tất cả lý do chính đáng để giải phóng Tây Ban Nha khỏi ách độc tài Francisco Franco, xây dựng một Tây Ban Nha dân chủ và sẽ là một đồng minh thân cận, vững chắc của Mỹ bên bờ Địa Trung Hải.
Với lòng tin tưởng quân đội Đồng Minh sắp giải phóng Tây Ban Nha, tại thủ đô Madrid, các phong trào sinh viên Tây Ban Nha đã tổ chức hàng loạt các cuộc biểu tình, nổi dậy, phân phối truyền đơn kêu gọi các tầng lớp nhân dân Tây Ban Nha đứng lên lật đổ độc tài Francisco Franco.
Không. Quân đội đồng minh không vượt biên giới Pháp Tây Ban Nha và phong trào sinh viên Tây Ban Nha đã bị Franco dập tắt một cách đẫm máu.
Lý do quân Mỹ không vượt biên giới. Từ khi phần thắng của Thế chiến Thứ Hai nghiêng về phía Đồng Minh, các lãnh đạo đồng minh đã hình dung ra một bản đồ mới, một trật tự mới tại châu Âu. Riêng đối với trường hợp Tây Ban Nha,  Stalin muốn trừng phạt Tây Ban Nha về tội “liên minh” với Đức nhưng Franklin Roosevelt và TT Winston Churchill từ chối. TT Mỹ và TT Anh chẳng những không muốn can thiệp vào chế độ chính trị Tây Ban Nha mà còn muốn dùng Franco để chống lại Stalin sau thế chiến.
Khi TT Franklin  Roosevelt qua đời ngày 12 tháng Tư 1945, Phó TT Harry Truman lên thay đã khai triển quan điểm bao vây Liên Xô một cách cụ thể hơn trong chủ thuyết được gọi là Chủ Thuyết Truman (Truman Doctrine). Trong kế hoạch đó, ngăn chận sự bành trướng của chủ nghĩa CS là trọng điểm và ưu tiên cao nhất trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Mỹ o bế Franco vì biết y là người chống Liên Xô triệt để. Đáp lại, Franco cho phép Mỹ thiết lập bảy căn cứ quân sự Mỹ trên lãnh thổ Tây Ban Nha.
Sài Gòn tháng 5, 2016
Sài Gòn tháng 5, 2016, hàng trăm ngàn người thuộc nhiều thế hệ đổ ra đường chờ suốt mấy giờ để đón chào tổng thống Mỹ.
Như đã viết trong bài trước, người dân miền Nam đón chào một người đại diện cho thế giới tự do hơn là tổng thống một quốc gia. Tiếng hoan hô TT Barack Obama bằng tiếng Anh, bằng tiếng Việt vang lên trên đường phố Sài Gòn. Một lần nữa cho thấy mạch sống dân chủ trong lòng người dân miền Nam vẫn còn chảy.
Những em nhỏ sinh ra hay lớn lên ở Sài Gòn sau 1975 có thể không nhận ra nhưng dân chủ ở miền Nam là những hạt giống do Phan Chu Trinh, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh và rất nhiều nhà cách mạng miền Nam khác gieo xuống hàng thế kỷ trước đã mọc ra, lớn lên trong ý thức các em và đã là một phần trong máu huyết của các em. Điều đó giải thích tại sao các em cảm thấy gần gũi với lãnh đạo một quốc gia dân chủ từ xa xôi đến hơn là những “lãnh đạo đất nước” cùng dòng giống với mình.
Sau 41 năm, người dân miền Nam vẫn còn mang tâm lý sống trong vùng bị chiếm hơn là dân của một “nước Việt Nam thống nhất”. Người dân Sài Gòn vẫn mang nặng trong tim một nỗi nhớ Sài Gòn, dù họ sinh ra, lớn lên hay chỉ nghe lời kể lại của ông bà, cha mẹ.
Hơn mười năm trước, trên talawas, người viết đã có dịp phân tích những bản án mà đảng CS dành cho các nhà tranh đấu miền Nam bao giờ cũng nặng nề hơn, tù đày lâu hơn những người đấu tranh phát xuất từ miền Bắc:
“Trong lúc tôi vô cùng kính trọng những tiếng nói dân chủ vọng lên từ miền Bắc, những bản án dài hạn hơn nhiều mà giới lãnh đạo  Đảng Cộng sản đã dành cho những nhà đấu tranh cho tự do tôn giáo và nhân quyền phát xuất từ miền Nam cho thấy rằng, ba trăm năm sau, con sông Gianh cách ngăn dân tộc từ thời Trịnh Nguyễn vẫn còn chảy, không phải ở Quảng Bình mà chảy ngay giữa lòng Hà Nội, chảy trong tư duy của những người lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tương tự, những phân chia ngăn cách Bắc Trung Nam từ thời thực dân chẳng những không được lấp lại, trái lại mỗi ngày bị đảng đào sâu thêm. Chính sách trả thù đã thể hiện không những đối với những người cầm súng, những viên chức chính quyền cũ mà còn áp dụng một cách tàn nhẫn đối với gia đình họ, con cái họ và thậm chí còn mở rộng đến nhiều triệu người dân vô tội chỉ vì họ sống bên này sông Bến Hải.
Sau 1975, trong lúc hàng trăm ngàn sĩ quan và viên chức Việt Nam Cộng Hòa bị tù đày trong rừng sâu nước độc, hàng triệu thân nhân họ cũng đã gánh chịu nhiều cực hình không kém phần độc ác. Tôi đã gặp những đứa bé miền Nam có cha mà như không cha, có mẹ mà như mất mẹ, sống lang thang đầu đường cuối chợ. Tôi đã gặp những đứa bé miền Nam thông minh nhưng không có một cơ hội đến trường, chỉ biết đứng bên ngoài cổng trường mà khóc. Đảng nói gì chưa với những mái tóc xanh kia?”
Những “mái tóc xanh” lang thang trên đường phố Sài Gòn sau 1975  bây giờ đã lớn, đã ngoài tuổi 40, nhưng ký ức của tuổi thơ hãi hùng sẽ không bao giờ phai nhạt.  Sự có mặt của TT Barack Obama là cơ hội để các em bày tỏ thiện cảm dành cho tổng thống một nước dân chủ nhưng đồng thời cũng để  nhà cầm quyền CS thấy sự khinh bỉ các em dành cho các lãnh đạo độc tài. Hàng năm, các loa tuyên truyền của đảng vẫn tiếp tục lập lại bài hát “hòa giải hòa hợp dân tộc” vào mỗi dịp 30 tháng 4, nhưng 41 năm trôi qua chính sách phân biệt đối xử của đảng CSVN đối với người dân miền Nam vẫn không thay đổi.
Trước đây, con số 20 năm tù trở thành một loại tiêu chuẩn dành cho những người tranh đấu nổi tiếng ở miền Nam như Linh mục Nguyễn Văn Lý (bị kết án 20 năm tù, 1977), Bác sĩ Nguyễn Đan Quế (bị kết án 20 năm tù, 1990), Gs Đoàn Viết Hoạt (bị kết án 20 năm tù, 1993) và hiện nay cũng thế, Trần Huỳnh Duy Thức (bị kết án 16 năm tù cộng với 5 năm quản chế, 2010).
Ngoài chính sách cai trị dựa trên lý lịch, quá khứ, việc kết án nặng nề dành cho các nhà tranh đấu miền Nam còn chứng tỏ đảng rất sợ dân miền Nam. Nhưng sợ hay không sợ, khao khát tự do dân chủ như ngọn lửa âm ỉ trong lòng người sẽ một ngày bùng lên thành cách mạng.
Niềm đau Madrid, nỗi nhớ Sài Gòn
Người viết đọc câu chuyện phong trào sinh viên Madrid trong một tạp chí ở Sài Gòn trước 1975. Thời gian dài trôi qua, tên tuổi đã quên, nhưng sự hy sinh của họ vẫn còn sống trong ký ức và niềm tiếc thương dành cho sự hy sinh của họ vẫn còn trĩu nặng đến bây giờ.
Dù trong sáng và cao quý bao nhiêu, số phận của các lãnh đạo phong trào dân chủ Tây Ban Nha chắc chắn đã không được nhắc tới trong các phiên họp bàn viễn ảnh về châu Âu của Anh Mỹ. Tương tự, số phận của Trần Huỳnh Duy Thức và hàng trăm tù nhân lương tâm Việt Nam đang bị tù đày cũng không được TT Obama đặt ra như một điều kiện với lãnh đạo CSVN trong chuyến viếng thăm Việt Nam.  Vì thế, TT Obama đã rời Việt Nam nhưng những “đáng tiếc”, “lẽ ra”, “phải chi” vẫn còn nghe đây đó.
Trước mặt các nhà kiến trúc chính trị Mỹ chỉ có tấm bản đồ chứ không có tên tuổi người nào. Họ xây dựng chính sách đối ngoại với Trung Cộng từ kinh nghiệm đương đầu với Liên Xô. Liên Xô rất mạnh ở trung tâm nhưng yếu ở các vòng ngoài. Mikhail S. Gorbachev biết rõ điểm yếu đó và từng ra lịnh đàn áp cuộc nổi dậy đòi độc lập của nhân dân Lithuania 1989 để cứu vãn Liên Xô nhưng thất bại khi các nước vùng Baltic cùng đứng dậy.
Dĩ nhiên Mỹ phải chuẩn bị cho mọi hình thức sụp đổ của Trung Cộng nhưng dù khả năng nào, chính sách bao vây ngăn chận (containment) vẫn là bước đầu được hầu hết các tổng thống Mỹ, theo mức độ khác nhau, đã và đang theo đuổi. Cuộc “Chiến tranh Lạnh” khác đã bắt đầu ở Á Châu. Mỹ sẽ gia tăng áp lực, kể cả áp lực quân sự, từ bên ngoài để hy vọng Trung Cộng một ngày sẽ tan vỡ từ bên trong, giống như các TT Mỹ từ Harry Truman đến Ronald Reagan đã thực hiện và thành công đối với Liên Xô.
Thực tế chính trị quốc tế là vậy. Đừng nói chi là một phong trào dân chủ, dù Tây Ban Nha hay Việt Nam, mà ngay cả một quốc gia lớn như Tiệp Khắc còn bị Anh Pháp tặng không cho Hitler tại Hội nghị Munich trước Thế chiến Thứ Hai và một lần nữa bị Anh Mỹ bỏ rơi tại Hội nghị Yalta để cuối cùng rơi vào tay Stalin sau Thế chiến Thứ Hai. Từ một sinh viên cho đến lãnh đạo Tiệp không ai không xót đau, thương tiếc cho hàng triệu cái chết oan uổng của các thế hệ trước, nhưng thay vì nuôi thù báo oán họ tập trung xây dựng lại đất nước thịnh vượng và tự do dân chủ cho hôm nay và cho các đời sau.
Câu nói “vận mệnh Việt Nam nằm trong tay người Việt” của TT Obama là câu nói thành thật không phải với tư cách tổng thống Mỹ mà là một con người. Bởi vì, giá trị của một con người hay một đất nước cũng thế, không phải ở chỗ ngã xuống mà ở chỗ biết đứng lên, vượt qua và tiếp tục hành trình đi về phía trước. Không ai chết thay cho dân tộc Việt Nam ngoài dân tộc Việt Nam và cũng không ai cứu Việt Nam ngoài chính dân tộc Việt Nam.

Vui cười
Tý vừa khóc mếu máo vừa chạy về nhà, mách với bố:
- Thầy giáo trù đập con quá, bố ạ. Hôm nào thầy cũng gọi con lên trả bài. Thầy cố tình chọn những câu thật khó để con không trả lời được thì thầy phạt. Hôm nay con lại bị phạt cầm tai đứng ở cuối lớp.
- Bố Tý tức lắm. Hôm sau ông ta dẫn Tý, hầm hầm vào gặp thầy: Tôi nghe cháu nó nói thầy trù đập nó ghê lắm. Tại sao thầy lại đối xử với con tôi như vậy?
- Tôi trù đập con ông hồi nào đâu, nhưng ông xem, hôm nào tôi bảo nó lên bảng trả bài, nó cũng không trả lời được, kể cả câu hỏi dễ nhất.
- Tôi lại nghe cháu nó nói thầy toàn chọn câu khó thôi. Đâu, thầy cho tôi một ví dụ xem nào.
- Này nhé, hôm qua tôi hỏi nó tướng Trần Hưng Đạo chết hồi nào mà nó có trả lời được đâu.
- Bố Tý ngẫm nghĩ một lúc, rồi đáp: Thôi, thầy cũng thông cảm cho cháu. Gia đình tôi là gia đình làm ăn buôn bán, lâu lâu coi báo thì xem tin tức chứ ai đi đọc cáo phó làm gì.

  Hai người bạn hỏi thăm nhau:
- Tối qua, cậu đến nhà nàng chơi vui vẻ chứ?
- Ừ, tớ đứng dưới cửa sổ nhà nàng hát tình ca và cô ấy ném xuống cho tớ một cành hoa…
- Lãng mạn quá, thế còn đầu cậu bị sao thế?
- À… vì cô ấy đãng trí không… rút cành hoa ra khỏi bình!

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Xứ Sở Hận Thù

Tại sao cả thế giới phải dõi theo Cục dự trữ liên bang Mỹ ngày hôm nay?